TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 176/2019/HS-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 224/2019/HSST ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2138/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:
Đặng Văn N; giới tính: Nam; sinh ngày 05/8/1981; tại Đ; nơi ĐKTT: 01 P, Phường 4, Quận 5, Thành phố X; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Đặng Văn L và bà Đào Thị M; bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2006 con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/12/2018; có mặt.
Bị hại: Chị V Le Roux, sinh năm 1995; quốc tịch: Nam Phi; số hộ chiếu: A00000001; nơi ở: số 02, đường 03, phường T, Quận 2, Thành phố X (vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Tích A, sinh năm 1951; địa chỉ: 04 ấp B, xã C, huyện D, Thành phố X (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 19/12/2018, Đặng Văn N điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ mang biển số 59H1-261.10 lưu thông trên đường K, phường E, Quận F, Thành phố X nhìn thấy chị Angelique LR (quốc tịch Nam Phi) đang đi bộ cùng anh Gustaf J (quốc tịch Nam Phi), trên tay chị V Le Roux đang cầm điện thoại di động (hiệu Huawei Mate 20 Lite, 128 GB) nên N nảy sinh ý định cướp giật điện thoại di động. N điều khiển xe vòng lại chạy cùng chiều phía sau chị V Le Roux rồi áp sát bên phải chị V, N dùng tay trái giật điện thoại di động của V và điều khiển xe bỏ chạy. Chị V truy hô. Lúc này, hai anh Nguyễn Hạnh Phước Q, Trần Nhật R lưu thông trên đường nghe thấy liền đuổi theo. Khi tới giao lộ NKKN và HN, anh R đạp xe của N, làm N ngã xuống đường. N đứng dậy dựng xe, tiếp tục điều khiển xe chạy tới trước số 93-95 đường HN, phường Nguyễn TB, Quận F thì bị anh Q và anh R khống chế bắt giữ giao cho Công an phường Nguyễn TB, Quận F lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố X, Đặng Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 367/KL-HĐĐGTS ngày 15/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp thành phố kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Huawei Mate 20 Lite, màu đen dung lượng 128 GB, đã qua sử dụng có giá trị 11.115.000 đồng.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, biển số 59H1-261.10 và 01 nón bảo hiểm màu đỏ (thu giữ của Đặng Văn N);
- 01 điện thoại di động hiệu bà V Le Roux đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 151/CT-VKS-P2 ngày 16/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố X đã truy tố bị cáo Đặng Văn N về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố X phát biểu tại phiên tòa: Giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn N về tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Văn N từ 03 năm tù đến 04 năm tù. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ông Trần Tích A yêu cầu được nhận lại 01 xe hai bánh biển số 59H1-261.10, số khung: RLCS5C630CY666773, số máy: 5C63666824 do khi giao cho bị cáo, ông không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:
[1] Xét lời khai nhận của bị cáo Đặng Văn N tại phiên tòa cơ bản phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, bản tự khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 50 phút ngày 19/12/2018 tại trước nhà 75 K, phường E, Quận F, Đặng Văn N đã có hành vi điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius biển số aaHb-000.01 áp sát phía bên phải của chị V Le Roux rồi dùng tay trái giật 01 chiếc điện thoại di động hiệu Huawei Mate 20 Lite qua định giá có trị giá là 11.115.000 đồng, khi bỏ chạy thì bị bắt quả tang.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác, trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo sử dụng xe mô tô để thực hiện hành vi cướp giật điện thoại gây nguy hiểm cho người khác nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản” thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo về hình phạt đặt ra phải nghiêm, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục họ ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt do bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[2] Xét cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố X đã truy tố đối với bị cáo Đặng Văn N về khung, điều luật và tội danh như đã viện dẫn trên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Xét phần luận tội của Kiểm sát viên là đồng quan điểm với Hội đồng xét xử nên chấp nhận, riêng đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại theo quy định tại điểm h Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là chưa phù hợp nên không chấp nhận.
[3] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của họ. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện đều hợp pháp.
[4] Trách nhiệm dân sự: Chị V Le Roux đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.
[5] Xử lý vật chứng:
Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 59H1-261.10 và 01 nón bảo hiểm đỏ thu giữ của bị cáo Đặng Văn N.
Qua xác minh xe mô tô trên đứng tên sở hữu của ông Trần Tích A. Ông A khai cho Đặng Văn N mượn xe để sử dụng, ông không biết việc Đặng Văn N sử dụng xe để cướp giật điện thoại và yêu cầu được nhận lại xe. Xét thấy, xe thuộc sở hữu hợp pháp của ông A và ông không biết việc bị cáo N sử dụng xe để cướp giật tài sản và cũng phù hợp với lời khai nhận của bị cáo nên trả lại xe trên cho ông Trần Tích A.
Đối với nón bảo hiểm thu giữ của bị cáo, xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đặng Văn N phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn N 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2018.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trả lại cho ông Trần Tích A 01 xe hai bánh biển số 59H1-261.10, số khung: RLCS5C630CY666000, số máy: 5C63666000.
Tịch thu và tiêu hủy 01 nón bảo hiểm màu đỏ.
(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 205/19 ngày 24/4/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố X).
Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 176/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 176/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về