Bản án 56/2019/HS-ST ngày 05/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 05/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QXXST-HS ngày 25-7-2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành D (có tên gọi khác là T), sinh năm 1985; Nơi sinh: Sóc Trăng; Nơi thường trú: số 176/5 đường K, Khóm 6, Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Thành D (chết) và bà Vương Mỹ L; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 22-4-2019 cho đến nay. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1 1. Ông Quách Châu L, sinh năm 1989; Nơi cư trú: ấp Q, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

2. Ông Quách Tấn Hòa, sinh năm 1948; Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 50 phút ngày 22-4-2019, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại khu vực vòng xoay ngã tư đường Nguyễn Văn L giao với đường P, Khóm 3, Phường 2, thành phố S có đối tượng biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Phòng cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy - Công an tỉnh Sóc Trăng kết hợp với Đội cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố Sóc Trăng và Công an Phường 2, thành phố S tiến hành đến địa điểm trên phát hiện Nguyễn Thành Dg đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, kiểm tra gần vị trí ngồi của D phát hiện có 02 bịch nylon được hàn kín bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, nghi vấn là ma túy nên đã bắt giữ D cùng vật chứng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của D tại Số 176/5 đường K, Khóm 6, Phường 6, thành phố S. Cơ quan điều tra phát hiện thêm thêm 04 bịch nylon trong được hàn kín bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng được để trong bóp da màu nâu để trên tủ gỗ ở khu vực trong nhà nghi vấn là ma túy nên đã thu giữ và niêm phong.

Tại Kết luận giám định số 37/GĐMT-PC09 ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Gói 01 Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,332 gam là Methamphetamine; Gói 02 Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,532 gam là Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, D khai nhận: Vào ngày 21-4-2019, D được một người bạn tên Hùng ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể cho 01 bịch ma túy đá. Có được ma túy, D sử dụng một ít, số còn lại D chia ra thành 06 bịch nhỏ cất vào bóp da màu nâu để trên tủ gỗ trong nhà. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22-4-2019, D đang ở nhà tại địa chỉ Số 176/5 đường K, Khóm 6, Phường 6, thành phố S thì người bạn tên Quách Châu L chạy xe đến rủ đi uống cà phê nhưng D không đi. Sau đó, D hỏi L mượn xe biển số 83P3- 60097 của L, nói đi công việc thì L đồng ý cho mượn. D vào nhà đi lại vị trí để 06 bịch ma túy đá, D lấy 02 bịch bỏ vào túi quần Kaki bên phải phía trước rồi điều khiển xe đến tiệm game bắn cá trên đường T, Phường 2, thành phố S. Khi đi đến khu vực vòng xoay ngã tư đường Nguyễn Văn L giao với đường P, Khóm 3, Phường 2, thành phố S thì bị Công an kiểm tra nên D bỏ 02 bịch ma túy xuống gần chổ ngồi thì bị bắt.

Tại Cáo trạng số 54/VKS.TPST ngày 30-6-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thành D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm c Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong số 37/GĐMT-PC09 ngày 24-4-2019 có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, Trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Đò Tiến Kỳ; 01 hột quẹt ga màu vàng đã qua sử dụng; 01 bình nhựa màu xanh có nắp màu trắng đươc khoét 02 lỗ, một lỗ gắn ống hút màu trắng, một lỗ gắn một đoạn ống thủy tinh không đo kích thước (dụng cụ sử dụng ma túy); 05 bịch nylon trong không đo kích thước; 01 cây kéo có tay cầm màu đen đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút không đo kích thước; 01 hột quẹt ga đã qua sử dụng; 01 cây kẹp màu trắng bằng kim loại đã qua sử dụng; 02 lưỡi lam đã qua sử dụng; 01 cái bóp da màu nâu đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thành D: 01 gói niêm phong số 02 ngày 22-4- 2019; 01 gói niêm phong số 03 ngày 22-4-2019.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Quách Tấn H: xe mô tô biển số 83P3-600.97.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Quách Tấn H thừa nhận xe mô tô biển số 83P3-600.97 là do ông mua vào năm 2018, ông là người đứng tên chủ sở hữu xe và là người quản lý trực tiếp xe. Việc Long lấy xe đi rồi cho bị cáo mượn thì ông không biết. Nay ông yêu cầu được nhận lại xe.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Quách Châu L thừa nhận xe mô tô biển số 83P3-600.97 là của cha ông là Quách Tấn H bỏ tiền ra mua và là chủ sở hữu xe. Việc ông lấy xe đi rồi cho bị cáo mượn thì ông H không biết. Nay ông yêu cầu được giao trả lại xe cho ông H.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo đúng theo quy định pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành D đã khai nhận:

Bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2016 cho đến ngày bị bắt, loại ma túy mà bị cáo sử dụng là ma túy đá. Vào ngày 21-4-2019, bị cáo được một người bạn tên Hùng ở thành phố Hồ Chí Minh cho 01 bịch ma túy đá, bị cáo sử dụng được một ít ma túy, số ma túy còn lại bị cáo chia ra thành 06 bịch nhỏ cất giấu trong nhà của bị cáo. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22-4-2019, bị cáo đang ở nhà tại Số 176/5 đường K, Khóm 6, Phường 6, thành phố S thì Quách Châu L chạy xe đến rủ đi uống cà phê nhưng bị cáo không đi. Sau đó, bị cáo hỏi mượn xe mô tô biển số 83P3-600.97 của Long để đi công việc thì L giao xe cho bị cáo. Bị cáo vào nhà lấy 02 bịch ma túy đá bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe đến tiệm game bắn cá trên đường T, Phường 2, thành phố S, khi đi đến vòng xoay ngã tư đường Nguyễn Văn L với đường P thì bị Công an kiểm tra nên bị cáo bỏ 02 bịch ma túy xuống gần chổ ngồi của bị cáo, khi công an tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo thì thu giữ thêm 04 bịch ma túy.

[3]. Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Đi với bị cáo Nguyễn Thành D đã đem 06 bịch ma túy về cất giấu nhằm mục đích sử dụng, qua giám định ma túy là Methamphetamine, có tổng khối lượng là 2,864 gam. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Thành D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Cha ruột của bị cáo là ông Nguyễn Thanh D là người có công với nước. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Đối với người thanh niên Hùng ở thành phố Hồ Chí Minh là người đã cho bị cáo bịch ma túy, do không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên cơ quan Điều tra chưa làm việc được. Đề nghị Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án như sau:

Đi với các vật chứng là vật cấm lưu hành, cấm tàng trữ, công cụ dùng để sử dụng ma túy, cất giấu ma túy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với các gói niêm phong số 02 và số 03 cùng ngày 22-4-2019 là của cá nhân bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đi với xe mô tô biển số 83P3-600.97 là của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Quách Tấn H, việc con ông là Quách Châu L lấy xe rồi cho bị cáo mượn thì ông không biết nên cần trả lại cho người liên quan H.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức trung bình như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào điểm a, c Khoản 2, điểm b Khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 22-4-2019.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:

+ 02 gói niêm phong số 37/GĐMT-PC09 ngày 24-4-2019 có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, Trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Đò Tiến Kỳ.

+ 01 hột quẹt ga màu vàng đã qua sử dụng

+ 01 bình nhựa màu xanh có nắp màu trắng đươc khoét 02 lỗ, một lỗ gắn ống hút màu trắng, một lỗ gắn một đoạn ống thủy tinh không đo kích thước (dụng cụ sử dụng ma túy)

+ 05 bịch nylon trong không đo kích thước

+ 01 cây kéo có tay cầm màu đen đã qua sử dụng

+ 01 đoạn ống hút không đo kích thước

+ 01 hột quẹt ga đã qua sử dụng

+ 01 cây kẹp màu trắng bằng kim loại đã qua sử dụng

+ 02 lưỡi lam đã qua sử dụng

+ 01 cái bóp da màu nâu đã qua sử dụng Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thành D: 01 gói niêm phong số 02 ngày 22-4-2019 và 01 gói niêm phong số 03 ngày 22-4-2019 theo Phiếu nhập kho số NK00058 ngày 01-7-2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Quách Tấn H: 01 xe mô tô biển số 83P3-600.97.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 05/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về