Bản án 55/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2020/TLST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST-HS, ngày 03 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng S, sinh năm: 1996; tại Đồng Tháp; tên gọi khác: B G; nơi cư trú:

50/2, ấp H T, xã T D, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị M; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ: Từ ngày 09/6/2020 đến ngày 18/6/2020; tạm giam: từ ngày 18/6/2020 đến nay; bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Đồng Tháp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người làm chứng:

1. Trần Chí C - sinh năm: 1995. (vắng mặt) Nơi cư trú: K 4, P 6, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

2. Ngô Hữu P - sinh năm: 1991. (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấ 1, xã M L, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

3. Nguyễn Ngọc H - sinh năm: 1989. (vắng mặt) Nơi cư trú: K 1, thị trấn L V, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

4. Nguyễn Thị M - sinh năm: 1964. (vắng mặt) Nơi cư trú: 50/2, ấp H T, xã T D, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 09/6/2020, Công an huyện Lai Vung tuần tra trên đường ĐT 851 đoạn trước Thánh thất Cao Đài thuộc k 1, thị trấn L V, huyện Lai Vung thì phát hiện Nguyễn Hồng S đang ngồi trên xe mô tô hiệu Dream màu nâu, biển kiểm soát 53S6-5534 được đậu trên lề đường có biểu hiện khả nghi, Công an huyện Lai Vung kiểm tra thì phát hiện trên nền gạch vỉa hè ngay chỗ S đậu xe có 01 túi nylon màu trắng được hàn kín, bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng được quấn kín lại bằng băng keo đen, S khai là ma túy của S ném xuống, S lấy lên và giao nộp Công an huyện Lai Vung đã niêm phong và lập biên bản phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hồng S.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Hồng S khai: S sử dụng điện thoại hiệu OPPO, số sim điện thoại 0786434833 của S để liên hệ với Chi hỏi mua 2.400.000 đồng ma túy của Cvào ngày 02/6/2020, hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại ngã tư P H, thuộc xã P H, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, S đến điểm hẹn nhận ma túy từ người tên C (không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể). S đem ma túy về sử dụng hết 01 phần, phần còn lại khoảng 01 góc tám. Đến khoảng 13 giờ ngày 09/6/2020, có người tên C và C (chưa xác định được họ tên và địa chỉ) điện thoại kêu S bán một góc tám ma túy còn lại của S cho người bạn của C và C tên là Trần Chí C với giá 1.000.000 đồng thì S đồng ý. C có gửi số điện thoại của Trần Chí C là 0826815273 qua cho S. S điện thoại hẹn C giao nhận ma túy trên lề đường ĐT 851 (phía trước thánh thất Cao Đài ở k 1, thị trấn L V). Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, S điều khiển xe Dream màu nâu, biển kiểm soát 53S6-5534 đến trước thánh thất Cao Đài đợi C đến giao ma túy, khi S đến điểm hẹn để giao ma túy nhưng không gặp C, S chuẩn bị đem ma túy về sử dụng không có mục đích, ý định bán ma túy cho C nhưng bị Công an huyện Lai Vung tuần tra kiểm soát, sợ bị phát hiện nên S ném ma túy xuống đường thì bị phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hồng S.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lai Vung thu giữ của Nguyễn Hồng S gồm:

- 01 túi nylon màu trắng được hàn kín, bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng được quấn kín lại bằng băng keo đen (nghi là ma túy), S khai nhận là ma túy của S vừa ném xuống đường.

- 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO, màu trắng - vàng nhạt, có 01 sim điện thoại số thuê bao 0786434833, S dùng liên lạc mua ma túy.

- Tiền Việt Nam 2.414.000đ để trong túi quần sau bên phải của Nguyễn Hồng S, do gia đình cho và S làm thuê có được.

- 01 xe môtô hiệu Dream, màu nâu, biển số 53S6-5534 số máy: CT 100E- 1779063, số khung: không xác định được, chưa xác định được chủ sở hữu. S khai mua của một người không biết họ tên và địa chỉ ở Thành phố Hồ Chí Minh, không có giấy tờ.

Ngày 26/6/2020 Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đồng Tháp có phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đối với xe mô tô mang biển số: 53S6-5534 kết quả như sau: “Không tìm thấy dữ liệu tra cứu theo chỉ tiêu tìm kiếm trên” Tại bản kết luận giám định số 508/KL-KTHS ngày 11/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 01 bịch nylon màu trắng hàn kín được niêm phong trong bì thư ký hiệu số 01 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 1,021 gam, loại Methamphetamine. Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lai Vung: Tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 0,882 gam được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 01.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS, ngày 23/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung, đã truy tố Nguyễn Hồng S ra trước Toà án nhân dân huyện Lai Vung, để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Hồng S khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung truy tố bị cáo về tội “Tàng Trữ trái phép chất ma túy”.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Khẳng định việc truy tố đúng như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Nguyễn Hồng S có hành vi điều khiển xe mô tô hiệu Dream màu nâu, biển kiểm soát 53S6-5534 đến phía trước thánh thất Cao Đài ở k 1 thị trấn L V, huyện Lai Vung để giao 1,021 gram ma túy loại Methamphetamine cho Trần Chí C với giá 1.000.000 đồng, khi S đến điểm hẹn để giao ma túy nhưng không gặp C, S không có mục đích, ý định bán ma túy cho C chuẩn bị đem ma túy về sử dụng nhưng bị Công an huyện Lai Vung tuần tra kiểm soát, sợ bị phát hiện nên S ném ma túy xuống đường thì bị phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Hồng S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt đối với bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định trong bì thư ký hiệu số 01 có khối lượng 0,882 gam, được niêm phong ghi “Niêm phong số 544, ngày 09/6/2020”, có đóng dấu tròn màu đỏ của “Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đồng Tháp” và các chữ ký ghi họ tên: Trần Thị Ý N, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Tấn Đ, có in hai dấu vân tay màu đỏ và chữ ký ghi họ tên Nguyễn Hồng S.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động, hiệu OPPO, màu trắng - vàng nhạt, số sim 0786434833 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng, do S dùng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng S số tiền 2.414.000 đồng. Nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Giao xe môtô hiệu Dream, màu nâu, biển số 53S6-5534 số máy: CT 100E- 1779063, số khung: không xác định được, chưa xác định được chủ sở hữu cho Cơ quan điều tra huyện Lai Vung tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ chủ sở hữu sẽ xem xét giải quyết sau.

(Hiện vật chứng tiền và tài sản trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung đang quản lý).

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với người có tên C và người tên C, Cơ quan điều tra huyện Lai Vung đang tiếp tục xác minh, nhưng chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với Trần Chí C, Ngô Hữu P có hành vi mua trái phép chất ma túy của S nhằm mục đích sử dụng nhưng chưa nhận được ma túy, Công an huyện Lai Vung đã tiến hành xử phạt hành chính đối với C, P.

Bị cáo Nguyễn Hồng S thống nhất với Bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung, không tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Có sự thay đổi Hội thẩm nhân dân ông Đặng Thanh Cao thay cho Hội thẩm nhân dân bà Võ Thị Mỹ Duyên. Kiểm sát viên, bị cáo thống nhất sự thay đổi này và không có yêu cầu, ý kiến gì.

Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên của huyện Lai Vung trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Hồng S đã có hành vi mua 2.400.000 đồng ma túy của người tên C, C (không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể) ở ngã tư P H, thuộc xã P H, huyện Lai Vung. S đem ma túy về sử dụng hết 01 phần, phần còn lại khoảng 01 góc tám, sau đó S điều khiển xe mô tô hiệu Dream màu nâu, biển kiểm soát 53S6-5534 đến phía trước thánh thất Cao Đài ở k 1 thị trấn L V, huyện Lai Vung để giao 1,021 gram ma túy loại Methamphetamine cho Trần Chí Cvới giá 1.000.000 đồng, khi S đến điểm hẹn để giao ma túy nhưng không gặp C, S không có mục đích, ý định bán ma túy cho C, chuẩn bị đem ma túy về sử dụng nhưng bị Công an huyện Lai Vung tuần tra kiểm soát, sợ bị phát hiện nên S ném ma túy xuống đường thì bị phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với hiện trường vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó lời nhận tội của bị cáo là có căn cứ, bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, cho nên hành vi của bị cáo Nguyễn Hồng S có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 và khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”.

“5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Về tính chất, mức độ tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hồng S là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy, gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, ma túy là chất gây nghiện, làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh bình thường của con người, ma túy còn là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, phát sinh nhiều tội phạm khác, làm gánh nặng cho xã hội, gây tha hóa biến chất một bộ phận không nhỏ trong nhân dân đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên, vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai như ngày hôm nay là cần thiết.

Tính chất vụ án là nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy cần phải có một mức hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. Ngoài ra cần phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời nhằm mục đích giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Nguyễn Hồng S thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư ghi niêm phong số 544, ngày 09/6/2020”, có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp và các chữ ký ghi họ tên Trần Thị Ý N\, Nguyễn Thanh B\, Nguyễn Tấn Đ\, có in hai dấu vân tay màu đỏ và chữ ký ghi họ tên Nguyễn Hồng S (Bên trong là mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 0,882 gam).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO, màu trắng - vàng nhạt, có 01 sim số thuê bao 0786434833, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng, do S dùng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

[6] Đối với người có tên C và người tên C, Cơ quan điều tra huyện Lai Vung đang tiếp tục xác minh, nhưng chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với Trần Chí C, Ngô Hữu P có hành vi mua trái phép chất ma túy của S nhằm mục đích sử dụng, nhưng chưa nhận được ma túy, Công an huyện Lai Vung đã tiến hành xử phạt hành chính đối với C, P.

[7] Đối với những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, nhưng qua các lời khai có trong hồ sơ vụ án, những người này khai giống như nội dung vụ án.

[8] Kiểm sát viên đề nghị giải quyết nội dung vụ án này là đúng quy định pháp luật, Hội đồng xét xử đồng ý quan điểm của Kiểm sát viên.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. [10] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/6/2020.

Căn cứ khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Hồng S 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng S số tiền 2.414.000 đồng được đựng trong 01

(một) gói niêm phong có chữ ký tên ghi họ tên của Nguyễn Hồng S, điều tra viên Võ Minh Q và dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Lai Vung (bên trong có 2.414.000 đồng). Nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Giao 01 (một) xe môtô hiệu Dream, màu nâu, biển kiểm soát 53S6-5534 số máy: CT 100E-1779063, số khung: không xác định được, chưa xác định được chủ sở hữu cho Cơ quan điều tra huyện Lai Vung tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ chủ sở hữu sẽ xem xét giải quyết sau.

(Hiện vật chứng tiền và tài sản trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai

Vung đang quản lý).

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư ghi niêm phong số 544, ngày 09/6/2020”, có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp và các chữ ký ghi họ tên Trần Thị Ý N, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Tấn Đ, có in hai dấu vân tay màu đỏ và chữ ký ghi họ tên Nguyễn Hồng S (Bên trong là mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 0,882 gam).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO, màu trắng - vàng nhạt, có 01 sim số thuê bao 0786434833.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hồng S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23/12/2020.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự: Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về