Bản án 55/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

 BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

 Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Kỳ Đ, sinh năm 1980, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Số X, đường Đ, Phường Y, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T và bà Trịnh Thị Minh L; có vợ và 01 con; tiền sự, tiền án: Không có; bị bắt ngày 12/02/2020, tạm giữ ngày 13/02/2020, tạm giam từ ngày 19/02/2020 đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Thế Hòa B là luật sư của Văn phòng luật sư B thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty D; Địa chỉ: Số X1, đường N, Phường Y1, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; Đại diện hợp pháp: Bà Đặng Thị Lan P, sinh năm 1969, chức vụ: Tổng giám đốc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 15 phút ngày 12/02/2020, trên Quốc lộ 22 thuộc khu vực ấp B, xã A, huyện T (nay là khu phố B, phường A, thị xã T), tỉnh Tây Ninh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bàng (nay là thị xã Trảng Bàng) bắt quả tang Nguyễn Kỳ Đ điều khiển xe ôtô taxi biển số 51F-xxx.xx vận chuyển 5.680 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 1.500 bao nhãn hiệu 555, 1000 bao nhãn hiệu Raison, 950 bao nhãn hiệu Esse, 700 bao nhãn hiệu Caraven, 500 bao nhãn hiệu Canyon, 500 bao nhãn hiệu Zouk, 500 bao nhãn hiệu Zest marula, 30 bao nhãn hiệu Garge karelies anh sons). Thu giữ 5.680 bao thuốc lá điếu các loại và một số vật chứng liên quan.

Qua điều tra, thể hiện: Vào khoảng 21 giờ 45 phút ngày 12/02/2020, Đ điều khiển xe ôtô taxi biển số 51F-xxx.xx đến khu vực huyện G, tỉnh Tây Ninh gặp một người phụ nữ (không rõ tên, địa chỉ) nhận vận chuyển thuê thuốc lá điếu nhập lậu gồm 09 bao tải và 02 giỏ xách bên trong chứa 5.680 bao thuốc lá với tiền công 1.000.000 đồng. Đ điều khiển xe ô tô chở số thuốc lá trên đến khu vực khu phố B, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, Đ còn thừa nhận đã vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu cho người phụ nữ trên 03 lần với tiền công mỗi lần 1.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung Bản cáo trạng đã nêu.

Tại Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 31 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng đã truy tố bị cáo Nguyễn Kỳ Đ về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Kỳ Đ từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”.

- Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất đề nghị của đại diện viện kiểm sát về tội danh, tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối hận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận như sau: Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 12/02/2020, tại khu vực ấp B, xã A, huyện T (nay là khu phố B, phường A, thị xã T), tỉnh Tây Ninh, bị cáo Nguyễn Kỳ Đ có hành vi dùng xe ô tô taxi biển số 51F-xxx.xx vận chuyển 5.680 bao thuốc lá điếu nhập lậu để hưởng tiền công vận chuyển là 1.000.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, xâm hại đến nền kinh tế quốc dân, vi phạm pháp luật về hàng cấm, bị cáo biết rõ hành vi của bị cáo là tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu nhưng bị cáo vẫn thực hiện nhằm hưởng lợi bất chính. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như:

- Về tình tiết tăng nặng: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo Đ được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận. Đối với đề nghị của người bào chữa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp nên chấp chận.

[5] Đối với người phụ nữ dùng số điện thoại 039754xxxx liện lạc thuê bị cáo vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu. Qua xác minh chủ thuê bao đăng ký số điện thoại 039754xxxx là bà Trần Thị H, sinh năm 1971, địa chỉ ấp C, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Bà H đã bỏ địa phương đi nơi khác không rõ nơi cư trú, chưa làm việc được. Cơ quan điều tra cần tiếp tục làm rõ để xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng như sau:

Đối với xe ô tô taxi biển số 51F-xxx.xx do Công ty D là chủ sở hữu. Bị cáo sử dụng xe để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu đại diện hợp pháp Công ty D không biết nên cơ quan điều tra đã trả lại là phù hợp.

Đối với 5.680 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 1.500 bao nhãn hiệu 555, 1.000 bao nhãn hiệu Raison, 950 bao nhãn hiệu Esse, 700 bao nhãn hiệu Caraven, 500 bao nhãn hiệu Canyon, 500 bao nhãn hiệu Zouk, 500 bao nhãn hiệu Zest marula, 30 bao nhãn hiệu Garge karelies anh sons) là hàng cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với một điện thoại di động màu đen hiệu Nokia, loại 105, số serial: 357698106921166, có sim số 0777.65xxxx, bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F1S, màu Gold, số Imei 1:863069031961718, số Imei 2: 863069031961700, có sim số 058561xxxx, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

Đối với một giấy phép lái xe số 790128250624 hạng B2 do Nguyễn Kỳ Đ đứng tên, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Kỳ Đ 05 (năm) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/02/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1. Tuyên trả lại cho bị cáo Nguyễn Kỳ Đ: Một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F1S, màu Gold, số Imei 1: 863069031961718, số Imei 2: 863069031961700, có sim số 058561xxxx. Một giấy phép lái xe số 790128250624 hạng B2 do Nguyễn Kỳ Đ đứng tên.

2.2. Ghi nhận Công ty D đã nhận lại xe ô tô taxi biển số 51F-xxx.xx cùng giấy tờ đăng ký xe.

2.3. Tuyên tịch thu tiêu hủy:

- 5.680 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 1.500 bao nhãn hiệu 555, 1.000 bao nhãn hiệu Raison, 950 bao nhãn hiệu Esse, 700 bao nhãn hiệu Caraven, 500 bao nhãn hiệu Canyon, 500 bao nhãn hiệu Zouk, 500 bao nhãn hiệu Zest marula, 30 bao nhãn hiệu Garge karelies anh sons).

2.4. Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Một điện thoại di động màu đen hiệu Nokia, loại 105, số serial: 357698106921166, có sim số 0777.65xxxx.

3. Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Kỳ Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 55/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về