TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH B
BẢN ÁN 10/2019/HSST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Trong ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 140/2018/HSST, ngày 28 tháng 12 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/HSST ngày 08/01/2019, đối với bị cáo:
Trần Văn H, sinh năm 1979. tại: tỉnh B. Nơi cư trú: thôn Bình Nhơn, xã Bình Tân, huyện B, B; nghề nghiệp: Chạy xe thồ; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt nam; con ông Trần Văn H (chết) và bà Bùi Thị X; vợ: Lê Xuân Đ, sinh năm 1983; con: có 03 người (lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: không; bị cáo được tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau:
Vào khoảng 17 giờ 10 phút, ngày 16/12/2018 trên đường DT716 thuộc thôn Phú Thủy, xã Hòa Phú, huyện T. Tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Công an xã Hòa Phú tuần tra, phát hiện và bắt quả tang Trần Văn H, sinh năm 1979, thôn Bình Nhơn, xã Bình Tân, huyện B đang vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 1.500 bao, gồm các loại: 600 bao hiệu Scott; 300 bao hiệu Jet; 300 bao hiệu Hero; 300 bao hiệu Caraven “A” đang vận chuyển trên 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815.
Trần Văn H khai nhận: vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 16/12/2018, Hậu chạy xe thồ chở khách đi P, sau đó trên đường về lại huyện B dừng xe lại tại khu vực cầu Bến Lội, thành phố P thì tình cờ có một thanh niên không rõ lai lịch thuê Hậu vận chuyển 1.500 bao thuốc lá nhập lậu về đến cầu Hòa Phú sẽ có người tên Nga (không rõ lai lịch) đến nhận và sẽ trả tiền công cho Hậu là 300.000 đồng. Hậu đồng ý và sử dụng chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815 đang vận chuyển đến đường DT 716 thuộc xã Hòa Phú, huyện T thì bị bắt quả tang. Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 07/QĐ/KSĐT/VKS/HS, ngày 28/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đã truy tố bị cáo Trần Văn H, về tội “ Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định và đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 191 điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt tiền bị cáo Hậu từ 50.000.000đ đến 60.000.000đ.
Về phần xử lý tang vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên xử:
- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815 và 01điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.
- Tịch thu tiêu hủy 1.500 bao thuốc lá (600 bao hiệu Scott, 300 bao hiệu Jet, 300 bao hiệu Hero và 300 bao hiệu Caraven”A” đã được niêm phong); 03 chiếc bao ny lon màu đen; 02 giỏ quai cầm cao khoảng 60 cm và 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 01 m.
Lời nói sau cùng của bị cáo: hiện nay gia đình bị cáo lâm vào hoàn cảnh rất khó khăn, vợ bị cáo không có việc làm đang phải nuôi con nhỏ, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình, phương tiện kiếm sống hàng ngày chỉ là chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815. Bị cáo tha thiết xin Hội đồng xét xử rộng lòng chiếu cố, xem xét phạt tiền bị cáo ở mức thấp nhất và cho bị cáo xin lại chiếc xe, bị cáo dùng để chạy xe thồ nuôi sống gia đình hàng ngày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó có cơ sở khẳng định các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp đúng quy định của pháp luật.
[2] Về chứng cứ và hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung quyết định truy tố đã nêu, bị cáo khẳng định những lời khai của mình trong quá trình điều tra vụ án là hoàn toàn tự nguyện, không bị bức cung, ép cung và quyết định truy tố là hoàn toàn đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: vào ngày ngày 16/12/2018 sau khi chở khách vào P, trên đường quay về, Trần Văn H đã sử dụng chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815 vận chuyển 1.500 bao thuốc lá nhập lậu từ khu vực cầu Bến Lội, thành phố P về đến cầu Hòa Phú thì bị bắt quả tang. Vì vậy, Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 07/QĐ/KSĐT/VKS/HS, ngày 28/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đã truy tố bị cáo, về tội “ Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) như đã viện dẫn trong quyết định là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Thuốc lá điếu nhập lậu là loại hàng mà Nhà nước nghiêm cấm các hoạt động tàng trữ, vận chuyển, mua bán trong nội địa, thế nhưng bị cáo đã coi thường pháp luật, bất chấp hậu quả, thực hiện hành vi vận chuyển hàng cấm trong nội địa. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý kinh tế trong lĩnh vực thương mại về các mặt hàng cấm của Nhà nước, do đó phải xử lý theo tinh thần hướng dẫn tại khoản 3 Công văn số 154/TANDTC-PC ngày 25/7/2017 ”v/v xử lý hàng vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa” của Tòa án nhân dân Tối cao.
[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối cải. phạm tội lần đầu thuộc trương hợp ít nhiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên cần xem xét chiếu cố khi xử lý để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết phải phạt tù bị cáo, mà chỉ cần áp dụng hành phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội.
[5] Về xử lý tang, vật chứng:
- Đối với 01điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815 thu giữ của bị cáo, đây là công cụ phương tiện dùng trong việc phạm tội, nhưng xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay rất khó khăn, vợ bị cáo không có việc làm lại phải đang nuôi con nhỏ, chiếc xe là phương tiện duy nhất trong gia đình mà bị cáo dùng để chạy xe thồ hàng ngày, kiếm tiền nuôi sống cả gia đình, nếu phải tịch thu sung công quỹ nhà nước thì gia đình bị cáo mất đi nguồn sống, nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 1.500 bao thuốc lá (600 bao hiệu Scott, 300 bao hiệu Jet, 300 bao hiệu Hero và 300 bao hiệu Caraven”A” đã được niêm phong) là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 03 chiếc bao ny lon màu đen; 02 giỏ quai cầm cao khoảng 60 cm và 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 01 m thu giữ của bị cáo, đây là những vật dụng có giá trị sử dụng nhỏ dùng làm công cụ phương tiện trong việc phạm tội, nên tịch tiêu hủy.
[6] Về đối tượng có liên quan: Đối với người thanh niên thuê bị cáo vận chuyển thuốc lá tại cầu Bến Lội, thành phố P và người tên Nga tại Hòa Phú là người nhận thuốc lá, do không rõ lai lịch, nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của pháp luật.
[8] Đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa là có căn cứ, nên chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: điểm b khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
2. Tuyên bố: bị cáo Trần Văn H, phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”
3. Xử phạt: bị cáo Trần Văn H 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng)
4. Phần xử lý tang vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự
- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1-06815 và 01điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có 02 sim số thuê bao: 0933897170 và 0858052161.
- Tịch thu tiêu hủy 1.500 bao thuốc lá (600 bao hiệu Scott, 300 bao hiệu Jet, 300 bao hiệu Hero và 300 bao hiệu Caraven”A” đã được niêm phong trong 03 chiếc bao ny lon màu đen; 02 giỏ quai cầm cao khoảng 60 cm và 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 01 m.
(Vật chứng được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2018 giữa Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).
5.Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
6.Về quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 10/2019/HSST ngày 15/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 10/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về