TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 55/2020/HSPT NGÀY 13/02/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2020/TLPT-HS ngày 09/01/2020 đối với bị cáo Sùng A D, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 33/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Sùng A D, sinh ngày: 05/10/1992; Nơi sinh: huyện B, tỉnh Hà Giang; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Tin lành; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Sùng A H- sinh năm 1964 và con bà Vàng Thị H - sinh năm 1964. Hiện cha, mẹ bị cáo đang cư trú tại Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tiền án - Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2019 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Sùng A D: Bà Trần Thị Phương L - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
Người phiên dịch: Ông Sùng Văn H; địa chỉ Thôn E, xã C, huyện K.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng 16/7/2019 Sùng A D đi phụ đám cưới cho gia đình ông Dương Văn C ở Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk và dự đám cưới tại đây. Tại đám cưới có Vàng A T, Sùng Đức P, Vàng Seo D, Vàng A T1, Vàng A B và Vàng A H đều đến dự đám cưới. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày tất cả đều đã uống nhiều rượu và Sùng A D đã say rượu nên gây gổ với anh Sùng Đức P, anh P được Vàng Seo D đưa về còn D đi qua bàn bên cạnh ngồi cùng với Vàng A H, Vàng A T, Vàng A T1 và Vàng A B. Tại đây, D tiếp tục gây sự đòi đánh nhau với Vàng A H, thấy vậy nên T vào can ngăn, sau đó D, T, H lại ngồi vào bàn, một lúc sau giữa D và T xảy ra cãi nhau, lúc này D đứng dậy lao vào dùng tay đánh hai cái vào vùng mặt của T làm T ngã nghiêng vào chồng ghế và tử vong ngay sau đó tại rạp cưới nhà ông C.
Kết quả khám nghiệm tử thi Vàng A T cho thấy:
Khám ngoài: Tử thi dài 1m66, thể trạng trung bình, tình trạng tử thi cứng xác, nguội lạnh. Các dấu vết trên cơ thể: Xuất huyết kết mạc mắt, đồng từ giãn 5mm; môi tím, tím các đầu chi trên; mũi miệng khô sạch; vết xước da cạn ở vùng trán phải kích thước 01cm x 0,5cm; bầm tím da vành tai bên phải kích thước 06cm x 03 cm; dập rách da môi trong ở dưới bên phải kích thước 04cm x 03cm. Ngoài ra không phát hiện dấu vết thương tích nào khác.
Mổ tử thi: Toàn bộ da đầu trắng, không tụ máu, sọ thái dương hai bên không tụ máu, xương hộp sọ trắng không phát hiện rạn nứt; não phù nhẹ không phát hiện chảy máu trong và ngoài màng cứng; mặt cắt nhũn, trắng không chảy máu trong nhu mô não; cơ ngực lớn hai bên không tụ máu, hệ thống xương sườn không dập gãy; hai phổi xẹp dính toàn bộ cả mặt trước và mặt sau vào thành ngực khó bóc tách; xuất huyết và xung huyết toàn bộ dưới màng phổi; xuất huyết chấm rải rác ở mặt sau hai phổi; mặt cắt phổi xốp, trào máu và dịch bọt (phổi bên phải). Mặt cắt phổi trái nhũn trào chất dịch đặc màu trắng đục; bao màng ngoài tim chứa khoảng 03ml dịch màu vàng chanh, kích thước tim 13cm x 10cm x 06cm; cơ tim nhão, mặt trước tâm thất phải có đám màu trắng bao phủ kích thước 04cm x 03 cm; xuất huyết tâm thất trái mặt trước kích thước 05cm x 04cm. Lớp mỡ vàng dày bao phủ mặt trước và mặt sau hai thất; buồng tim hai bên chứa ít máu loãng, cơ thất trái dày 02cm, hẹp động mạch phổi trái; van ba lá sùi dày và xơ chai; khoang bụng khô sạch, quai ruột giãn chướng hơi và xung huyết hệ thống ống tiêu hóa. Bề mặt gan sần, bạc màu; mặt cắt gan sượng, đồng nhất kích thước 13cm x 06cm x 04cm; xung huyết toàn bộ dưới vỏ thận, xung huyết bể thận; dạ dày chứa ít thức ăn chưa tiêu hóa; xung huyết niêm mạc dạ dày. Thu mẫu phổi, cơ tim, van tim, mảng xơ cơ tim, gan, thận để giám định.
Ngày 17/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông, Đắk Lắk ra quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với Vàng A T. Tại bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số: 873/GĐHS ngày 17/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận tỉ lệ thương tích trên tử thi của anh T là 04%.
Ngày 16/7/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông, Đắk Lắk ra quyết định trưng cầu giám định nguyên nhân tử vong của Vàng A T. Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 267/TTh-TTPY ngày 08/08/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận nguyên nhân tử vong của Vàng A T do suy tim cấp - phù phổi cấp/Bệnh lý tim mạch, hô hấp. Kết luận khác: Các vết thương, chấn thương trên cơ thể Vàng A T (vết xước da cạn ở vùng trán phải kích thước 01cm x 0,5cm; bầm tím da vành tai bên phải kích thước 06cm x 03 cm; dập rách da môi trong ở dưới bên phải kích thước 04cm x 03cm) không dẫn đến chết người.
Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Sùng A D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Sùng A D 08 (tám) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 17/7/2019.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 585; 586; 591 Bộ luật dân sự: Bị cáo Sùng A D phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình bị hại gồm các khoản sau:
+ Tiền mai táng phí: 25.500.000 đồng.
+ Tiền tổn thất về tinh thần: 74.500.000 đồng.
+ Tiền cấp dưỡng nuôi các con của Vàng A T là Vàng Thị Thanh B - sinh ngày 08/4/2005, Vàng Thị L - sinh ngày 04/10/2006, Vàng Chí H - sinh ngày 08/12/2010 và Vàng Mạnh G - sinh ngày 25/8/2012. Một tháng bị cáo phải nộp 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho cả 4 người con, cấp dưỡng tạm tính từ ngày 16/7/2019 tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm (28/11/2019) là 4 tháng 13 ngày 8.866.666 đồng.
Tổng cộng: 108.866.666 đồng (Một trăm lẻ tám triệu tám trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi sáu đồng).
- Bị cáo đã bồi thường được: 116.399.000đ - 108.866.666đ = 7.532.334 đồng - Số tiền đã nộp còn thừa là 7.532.334 đồng sẽ tiếp tục được khấu trừ vào tiền cấp dưỡng của các tháng tiếp theo kể từ ngày 29/11/2019.
- Sau khi khấu trừ hết số tiền trên, mỗi tháng bị cáo Sùng A D phải có nghĩa vụ nộp 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho bà Thào Thị D là vợ của Vàng A T, để cấp dưỡng nuôi các con của Vàng A T là Vàng Thị Thanh B, Vàng Thị L, Vàng Chí H và Vàng Mạnh G. Mỗi cháu 500.000đ/tháng. Cấp dưỡng cho đến khi các cháu đủ tròn 18 tuổi.
Áp dụng Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự để tính lãi suất chậm Thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/12/2019, bị cáo Sùng A D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giảm một phần nghĩa vụ đóng góp nuôi con cho Vàng A T. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Sùng A D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã nêu.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giảm mức cấp dưỡng nuôi con cho Vàng A T của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
Người bào chữa cho bị cáo Sùng A D, Bà Trần Thị Phương L trình bày: Bị cáo có nhân thân tốt, trình độ học vấn thấp, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, gia đình các bị cáo sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền 116.399.000 đồng cho gia đình người bị hại nhằm khắc phục hậu quả đã gây ra, đại diện hợp pháp cho người bị hại đã làm đơn bãi nại cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận:
Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/7/2019 tại nhà ông Dương Văn C ở Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo Sùng A D đã uống rượu say gây gổ với các anh Sùng Đức P, Vàng A H. Sau đó lại gây gổ với anh Vàng A T, mặc dù không có mâu thuẫn gì. D đã dùng tay đánh nhiều cái vào vùng mặt của anh T gây thương tích 4% (thương tích không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chết người). Nhưng hành vi dùng tay đánh nhiều cái vào mặt anh T của D là nguyên nhân tác động đến bệnh lý tim mạch và hô hấp của anh T nên làm anh T tử vong.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Sùng A D về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo D 08 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 BLHS là có phần nghiêm khắc so với tính chất mức độ do hành vi của bị cáo gây ra. Tại Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã bồi thường chi phí mai táng cho người bị hại và bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình người bị hại. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống vùng sâu, vùng xa, gia đình thuộc hộ nghèo. Hội đồng xét xử nên giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm một phần nghĩa vụ đóng góp nuôi con, xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bị cáo trợ cấp cho các cháu con đẻ của Vàng A T (người bị hại) gồm: Vàng Thị Thanh B sinh tháng 4/2005; Vàng Thị L sinh tháng 10/2006; Vàng Chí H sinh tháng 12/2010; Vàng Mạnh G sinh tháng 8/2012 (mỗi cháu) số tiền 500.000 đồng/ 01 tháng, kể từ 16/7/2019 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp nên kháng cáo của bị cáo không có căn cứ để chấp nhận.
Từ những phân tích trên, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông về phần hình phạt.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do được chấp nhận một phần đơn kháng cáo nên bị cáo Sùng A D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Sùng A D; sửa bản án sơ thẩm số: 33/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Sùng A D 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 17/7/2019.
[3] Về trách nhiệm dân sự:
- Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 585; 586; 591 Bộ luật dân sự: Bị cáo Sùng A D phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình bị hại gồm các khoản sau:
+ Tiền mai táng phí: 25.500.000 đồng.
+ Tiền tổn thất về tinh thần: 74.500.000 đồng.
Tổng cộng: 100.000.000 đồng.
- Buộc bị cáo Sùng A D trợ cấp tiền cấp dưỡng nuôi các con của Vàng A T là Vàng Thị Thanh B - sinh ngày 08/4/2005, Vàng Thị L - sinh ngày 04/10/2006, Vàng Chí H - sinh ngày 08/12/2010 và Vàng Mạnh G - sinh ngày 25/8/2012. (mỗi cháu) số tiền 500.000 đồng/tháng. Thời gian trợ cấp tính từ ngày 16/7/2019.
Công nhận bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường được: 116.399.000đ, khấu trừ số tiền 100.000.000 đồng về chi phí mai táng và tổn thất tinh thần. Số tiền còn lại được khấu trừ vào số tiền trợ cấp nuôi con.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Sùng A D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 55/2020/HSPT ngày 13/02/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 55/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về