TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 27/2020/HSPT NGÀY 13/02/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 211/2019/TLPT-HS ngày 30 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Phan Tấn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: Phan Tấn T - sinh ngày 03 tháng 01 năm 1989 tại tỉnh Quảng Nam. Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Tấn H (s) và bà Lê Thị B (s); Có vợ là Nguyễn Thị Anh V và 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2015 ; Tiền án, tiền sự: Không ; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/10/2019, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 11/5/2019, Phan Tấn T nhờ Huỳnh Anh D (SN:
1990, trú tại thôn P, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam) điều khiển xe mô tô Honda SH BKS: 92E1-463.11 (xe do ông Nguyễn Văn C, SN: 1959, trú tại Khu Nghĩa Mỹ, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam đứng tên chủ sở hữu) chở đến quán karaoke X đường N, phường H, quận L, TP. Đà Nẵng để gặp chị Nguyễn Thị Phương T (SN: 1994, nơi ĐKNKTT: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị) vì giữa T và chị T trước đây có mối quan hệ tình cảm với nhau. Khi đến nơi, D điều khiển xe đi nơi khác còn Tài vào quán nước đối diện karaoke X của bà Phan Thị L (SN: 1970, trú tại K168/2 đường T, phường H, quận L, TP. Đà Nẵng) rồi gọi điện thoại cho chị T. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T gặp và nói chuyện với chị T về việc trong thời gian sống chung T đã cho chị T mượn số tiền là 50.000.000 đồng và T muốn lấy lại một ít tiền nhưng chị T không đồng ý rồi cả hai bên lời qua tiếng lại dẫn đến mâu thuẫn. Lúc này, T đứng phía bên phải của chị T và cầm vỏ chai thuỷ tinh (loại chai nước ngọt) đánh một cái từ phải qua trái trúng vào mặt của chị T làm vỏ chai bị vỡ, chị T lấy hai tay ôm mặt, T tiếp tục dùng ghế nhựa đánh vào đầu chị T một cái. Sau đó, chị T lấy điện thoại gọi cho người thân thì T ngăn cản và dùng tay đánh một cái vào đầu chị T. Sau khi bị đánh, chị ôm mặt nằm dưới đất và người dân đến tập trung đông nên T gọi điện cho D nhờ đến chở về, còn chị T được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Ngày 24/6/2019, Phan Tấn T đã đến cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu để trình diện và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 191/TgTngày 02/7/2019 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế TP. ĐàNẵng kết luận chị Nguyễn Thị Phương T bị: Chấn động não điều trị khỏi, chấn thương gãy xương chính mũi đã được nâng chỉnh mũi, chấn thương mắt phải rách giác mạc, phòi mống mắt đã được phẫu thuật khâu giác mạc, tái tạo tiền phòng, hiện tại đồng tử mắt phải méo, thị lực mắt phải giảm (2/10). Các tổn thương phần mền khác như đã nêu. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do các thương tích gây nên là 27% (hai bảy phần trăm).
Về dân sự: Bị cáo đã bồi thường số tiền 15.000.000 đồng. Bị hại Nguyễn Thị Phương T không yêu cầu bồi thường thêm.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã quyết định:
Căn cứ vào đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Phan Tấn T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/10/2019.
Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 03/12/2019, bị cáo Phan Tấn T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét theo trình tự phúc thẩm, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Phan Tấn T là đảm bảo hợp lệ.
+ Về nội dung: Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có cơ sở và mức án mà Tòa cấp sơ thẩm đã quyết định 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ Luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Phan Tấn T vẫn giữ nguyên kháng cáo, xin Hội đồng xét xử xem xét tính chất mức độ phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân và hoàn cảnh gia đình, hiện vợ đang mang thai đứa con thứ 3 xin xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phan Tấn T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã kết luận; thừa nhận do mâu thuẫn tình cảm nên bị cáo đã dùng chai thủy tinh và ghế nhựa đánh trúng mặt và đầu chị Nguyễn Thị Phương T, khiến chị T bị chấn động não, chấn thương vùng mặt, gẫy xương mũi và chấn thương mắt phải, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 27%. Với hành vi trên, bị cáo Phan Tấn T bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu kết án về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, với các tình tiết “Có tính chất côn đồ” và “dùng hung khí nguy hiểm” là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội tại địa phương, nên cần xử phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, xét tỷ lệ thương tích bị cáo gây ra cho bị hại là 27%, bị cáo bị truy tố và xét xử theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 2 năm đến 6 năm tù. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 4 năm 6 tháng tù là có phần nghiêm khắc so với hậu quả bị cáo gây ra. Mặt khác, sau khi gây án vào ngày 11/05/2019 đến ngày 24/06/2019 bị cáo đã tự nguyện ra trình diện, đầu thú trước cơ quan công an; đây là tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa nhận định và áp dụng cho bị cáo; bản thân bị cáo từ trước đến nay có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về vật chất cho người bị hại thể hiện sự ăn năn hối cải của mình; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện vợ đang mang thai con thứ 3. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Tấn T, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.
2. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phan Tấn T 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/10/2019.
3.Về án phí: Bị cáo Phan Tấn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 27/2020/HSPT ngày 13/02/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 27/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về