Bản án 206/2019/HSPT ngày 08/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 206/2019/HSPT NGÀY 08/07/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 08 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 188/2019/TLPT-HS ngày 04 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo Lang Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích”, do có kháng cáo của bị cáo và người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 24/04/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lang Xuân N (tên gọi khác: Không), sinh năm 1976, tại tỉnh Thanh Hóa; giới tính: Nam; nơi cư trú: Thôn A, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; con ông Lang Đình D và bà Vi Thị L. Bị cáo có vợ là Hoàng Thị P và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Đình Đ – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

- Người bị hại: Anh Nguyễn Công L (T), sinh năm 1991.

Trú tại: Thôn B, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 22/10/2018, Lang Xuân N đi bộ thì nhìn thấy anh Nguyễn Công L đang ngồi uống nước cùng ông Đinh Hữu B tại nhà bà Đỗ Thị V ở thôn A, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Khi nhìn thấy anh L, N bực tức vì trước đây anh L hay đổ lỗi cho N trộm cắp tài sản và nói đại ý là nếu mất tài sản gì sẽ đánh N, nên N về nhà lấy một khẩu súng tự chế bắn bằng hơi cồn, đạn là viên bi thủy tinh đến nhà bà V, N đứng ở góc sân chỗ cây trứng cá dùng súng bắn một phát trúng vào má trái của anh L. N nhìn thấy anh L ôm mặt chạy vào trong nhà thì N cầm súng về rồi bơi qua suối đến nhà em gái tên Lang Thị H ở thôn A, xã C, huyện E lẩn trốn. Ngày 23/10/2018, được người thân vận động nên N đến cơ quan Công an huyện Ea Súp đầu thú.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số: 1262/PY-TgT ngày 31/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Anh Nguyễn Công L bị vết thương tỉ lệ 7%, vật tác động: Hỏa, khí.

Vật chứng thu giữ: Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp thu giữ: 01 khẩu súng tự chế có đặc điểm: Được cấu tạo bằng những đoạn ống nhựa, bên ngoài được quấn băng keo màu đen, nòng súng dài 58 cm, đường kính 2,2cm. Trên thân súng có tay cầm hình chữ T, dài 13,5cm, súng có gắn cò nhựa dùng đề đánh lửa, có dây dẫn điện vào trong bình chứa khí cồn; 01 viên bi thủy tinh màu xanh

Bản kết luận giám định số: 928/C09C-DD3 ngày 07/12/2018 của phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng, kết luận: Khẩu súng của Lang Xuân N là súng tự chế kiểu súng hơi, còn dùng được và thuộc vũ khí có tính sát thương tương tự súng săn. Dùng cồn để bắn bi đường kính 12mm trong phạm vi từ 5 mét đến 11 mét có thể gây sát thương.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lang Xuân N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lang Xuân N 09 (Chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 07/5/2019, bị cáo Lang Xuân N kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.

Ngày 07/5/2019, người bị hại anh Nguyễn Công L kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với mức hình phạt 09 tháng tù giam là chưa đủ sức răn đe và đúng với hành vi của bị cáo. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng hình phạt tù đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lang Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lang Xuân N và người bị hại anh Nguyễn Công L. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Lang Xuân N 09 tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Tại phiện tòa trợ giúp viên pháp lý ông Nguyễn Đình Đ bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý với tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử đối với bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” . Nguyên nhân phạm tội của bị cáo do bức xúc đối với người bị hại. Tuy nhiên, bị cáo có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo ăn ăn hối cải về hành vi của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế; bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi 3 con nhỏ đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bên cạnh đó sau khi sự việc xảy ra gia đình bị cáo có mua sữa và bồi thường 500.000 đồng nhưng gia đình bị hại không nhận vì vậy đây cũng được xem là bị cáo có ý thức khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng, gia đình bị cáo có bố đẻ là người tham gia cách mạng được nhà nước tặng thưởng huân huy chương nên đây là tình tiết giảm nhẹ quy đinh tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ những phân tích nhận định trên thấy rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ không có tình tiết tăng nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 54 và khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật .

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì về hành vi phạm tội của mình và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo. Người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo, người bị hại tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo, người bị hại tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lang Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Lang Xuân N, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Lang Xuân N 09 (chín) tháng tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bởi lẽ, bị cáo phạm tội với 02 tình tiết tăng nặng định khung “Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ”, vì mâu thuẫn nhỏ nhặt với người bị hại mà bị cáo dùng súng cồn tự chế gây thương tích cho người bị hại là 7%. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo của bị cáo.

[3] Xét kháng cáo tăng nặng hình phạt đối với bị cáo của người bị hại, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo ăn ăn hối cải về hành vi của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi 3 con nhỏ, bố đẻ là người tham gia cách mạng được nhà nước tặng thưởng huân huy chương, tỉ lệ thương tích bị cáo gây ra cho người bị hại là 7%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lang Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự với mức hình phạt 09 (chín) tháng tù là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo tăng nặng hình phạt đối với bị cáo của người bị hại.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo, không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 để miễn toàn bộ án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo. Người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lang Xuân N và người bị hại anh Nguyễn Công L.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 16/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lang Xuân N 09 (Chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bătht i hành án.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585 và Điều 590 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Lang Xuân N phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cho anh Nguyễn Công L tổng số tiền là 17.091.000đ (Mười bảy triệu không trăm chín mươi mốt ngàn đồng).

Áp dụng khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự để tính lãi suất chậm thi hành án đối với số tiền bồi thường.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo Lang Xuân N.

Người bị hại anh Nguyễn Công L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

684
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 206/2019/HSPT ngày 08/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:206/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về