Bản án 55/2019/HS-ST ngày 12/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 55/2019/HS-ST NGÀY 12/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (Địa chỉ: Số 45- Lê Lợi, thành phố Đông Hà) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 05/TB-TA ngày 06 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Võ Văn Đ (Tên gọi khác: N, Tam M), sinh ngày 10 tháng 6 năm 1989, tại: Quảng Trị;

Trú tại: Khu phố S, phường Đô, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn T, sinh năm 1954 và bà Hồ Thị H, sinh năm 1958; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 18 tháng 01 năm 2006, Võ Văn Đ bị Chủ tịch UBND phường Đông Thanh, thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà), tỉnh Quảng Trị, ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, thời hạn 6 tháng.

- Ngày 21 tháng 8 năm 2007, Võ Văn Đ bị Công an phường Đông Thanh, thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà), tỉnh Quảng Trị, xử phạt hành chính, bằng hình thức “Cảnh cáo”, về hành vi “ Gây rối trật tự công cộng”.

- Ngày 28 tháng 7 năm 2008, Võ Văn Đ bị Tòa án nhân dân thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà), tỉnh Quảng Trị, xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích).

- Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Võ Văn Đ bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 6 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích theo Nghị Quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội.

- Ngày 06 tháng 12 năm 2012, Võ Văn Đ bị Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt hành chính 2.000.000 đồng, về hành vi “Cố ý gây thương tích”.

- Tháng 12 năm 2012, Võ Văn Đ bị Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt hành chính 2.000.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc”.

Các lần xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền nêu trên, Đ đã thi hành xong.

- Ngày 09 tháng 8 năm 2017, Võ Văn Đ bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 18 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 17 tháng 8 năm 2018, Đ chấp hành xong hình phạt.

- Ngày 06 tháng 6 năm 2019, bị Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 1.000.000 đồng, về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 08 tháng 9 năm 2014 sau đó chuyển tạm giam cho đến ngày 13 tháng 3 năm 2015 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Ngày 27/6/2019 bị tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Võ Văn P, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Khu phố S, phường Đô, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ ngày 08 tháng 9 năm 2014, Võ Văn Đ được anh trai là Võ Văn P cho 400.000 đồng và cho mượn xe mô tô để đi mua áo quần nhưng Đ điều khiển xe đến nhà của Nguyễn Hoàng L (Địa chỉ: Khu phố T, phường N, thành phố Đ) hỏi mua ma túy với mục đích để sử dụng; Tại nhà L, L giao cho Đ 03 gói ma túy, Đ giao cho L 400.000 đồng. Mua được ma túy, Đ cất giấu vào ví da màu nâu và để sau túi quần mình đang mặc rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi ngang qua quán cà phê “Thắm” thuộc Khu phố B, phường Đ, thành phố Đ thì bị Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang (vào lúc 15 giờ 25 phút ngày 08 tháng 9 năm 2014) và thu giữ: 03 (ba) gói giấy màu trắng, sọc xanh bên trong chứa các hạt, bột màu trắng (Đ khai nhận là Heroin).

Kết luận giám định số: 332/KLGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2014 và Công văn số: 634/PC09 ngày 31 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, xác định: Chất rắn màu trắng dạng (hạt + bột) gửi đến giám định là Ma túy loại Heroin, Trọng lượng (Khối lượng) 0,1188 gam.

Bản cáo trạng số: 59/QĐ/KSĐT-MT ngày 10 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố Võ Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (Bản cáo trạng số: 59/QĐ/KSĐT-MT ngày 10 tháng 7 năm 2019 thay thế Bản cáo trạng số: 06/QĐ/KSĐT-MT ngày 31 tháng 12 năm 2014).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát: Giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Võ Văn Đ phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt Võ Văn Đ từ 15 tháng đến 18 tháng tù

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

+ Ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì đánh ký hiệu 4663/C54(P7) có đóng dấu của Viện khoa học hình sự Bộ Công an;

+ 01 bao niêm phong đựng toàn bộ bao gói sau giám định, đánh ký hiệu BG132, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hoạt động tố tụng: Quá trình điều tra- truy tố- xét xử: Cơ quan tiến hành tố tụng- người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử; bị cáo đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, bị cáo Võ Văn Đ không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hoạt động tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng- người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

[2] Nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Võ Văn Đ khai nhận: Bản thân bị cáo nghiện ma túy từ trước năm 2013, loại ma túy bị cáo thường xuyên sử dụng là Ma túy trắng (cách gọi của những người nghiện ma túy), mỗi ngày bị cáo sử dụng từ 01 đến 02 tép (gói); Trong lúc đang thèm ma túy thì được anh trai là Võ Văn P cho tiền và cho mượn xe mô tô đi mua áo quần nhung bị cáo lại điều khiển xe đến nhà Nguyễn Hoàng L (quen biết từ trước) để mua ma túy. Khi gặp Nguyễn Hoàng L, Đ giao 400.000 đồng và nói “Anh bán cho Em 400.000 đồng loại trắng”, L nhận tiền, đi vào trong phòng lấy 03 tép (gói) ra giao cho Đ, nhận được 03 gói Đ nghĩ đó là loại Ma túy trắng thường dùng nên không kiểm tra mà cất dấu ngày vào ví da để sau túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe về nhà để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ (khoảng 15 giờ 25 phút ngày 08 tháng 9 năm 2014). Lời khai nhận tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đó là: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ đồ vật; kết luận giám định đối với đồ vật thu giữ.

Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 25 phút ngày 08 tháng 9 năm 2014, tại Khu phố B, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, Võ Văn Đ có hành vi cất giữ trong người 03 gói ma túy loại Heroine, có trọng lượng (khối lượng) 0,1188 gam, với mục đích sử dụng nên hành vi nêu trên của Võ Văn Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hình hơn hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, cần áp dụng điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội để buộc bị cáo Võ Văn Đ chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn gây mất trật tự an ninh ở địa phương nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng, ngừa và đẩy lùi loại tội phạm này hiện đang có chiều hướng gia tăng trên địa bàn thành phố Đông Hà. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tội phạm mà Đ gây ra trong vụ án này. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu nên việc không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Để đáp ứng nhiệm vụ chính trị trên địa bàn thành phố Đông Hà “Đẩy lùi tệ nạn ma túy” cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là có căn cứ và cần thiết.

Thời gian bị cáo bị tạm giữ và tạm giam được tính vào thời hạn chấp hành án.

Đi với hành vi bán ma túy của Nguyễn Hoàng L (theo lời khai của Đ), Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ nhưng không có căn cứ để xác định Nguyễn Hoàng L đã bán ma túy cho Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2] Về vật chứng:

- Ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì đánh ký hiệu 4663/C54(P7) có đóng dấu của Viện khoa học hình sự Bộ Công an; 01 bao niêm phong đựng toàn bộ bao gói sau giám định, đánh ký hiệu BG132, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 74FC-0390 thuộc quyền sở hữu của anh Võ Văn P kng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; Anh phúc đã được Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô và không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Văn Đ (Tên gọi khác: N, Tam M), phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Võ Văn Đ: 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2019 nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 08 tháng 9 năm 2014 đến ngày 13 tháng 3 năm 2015.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

- Ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì đánh ký hiệu 4663/C54(P7) có đóng dấu của Viện khoa học hình sự Bộ Công an;

- 01 bao niêm phong đựng toàn bộ bao gói sau giám định, đánh ký hiệu BG132, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị.

Vt chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 01 năm 2015, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2019/HS-ST ngày 12/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:55/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về