Bản án 55/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 55/2018/HS-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên; mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2018/TLST-HS ngày 07/8/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2018/QĐXXST-HS ngày 10/8/2018 đối với bị cáo:

Lò Văn D; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1972 tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản TP 1, xã S, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn C, sinh năm: 1936 và con bà: Lò Thị Q, sinh năm: 1938; Bị cáo có vợ là Vàng Thị M sinh năm 1973 và có 03 người con; Tiền sự, tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2018 cho tới nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 15 phút, ngày 24/4/2018, tổ công tác Công an huyện NP làm nhiệm vụ tại khu vực bản TP 1, xã S, huyện NP phát hiện bắt quả tang Lò Văn D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà ở của Lò Văn D.

Vật chứng thu giữ: 01 cục chất nhựa dẻo màu nâu đen có mùi hắc, do Lò Văn D tự giác lấy trong trong chiếc hòm gỗ cạnh giường ngủ ra giao nộp và khai nhận là thuốc phiện, D mua của người đàn ông dân tộc Lào không biết tên, tuổi địa chỉ của người đó ở đâu tại khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc khu vực xã S, huyện NP với số tiền là 60.000VNĐ, vào cuối tháng 3/2018, mục đích D cất giữ để sử dụng. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện NP không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 25/4/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP xác định: Vật chứng nghi là thuốc phiện thu giữ của Lò Văn D có khối lượng là 3,07 (Ba phẩy không bẩy) gam.

Bản kết luận giám định số: 446/GĐ-PC54, ngày 06/5/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất nhựa dẻo màu nâu đen gửi giám định là chất ma túy. Loại thuốc phiện.

Bản cáo trạng số: 34/CT-VKSNP ngày 06/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị can Lò Văn D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249/ BLHS.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lò Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội D bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NP giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn D mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng vụ án là 2,07 gam thuốc phiện.

Miễn án phí án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn D nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo Lò Văn D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 10 giờ 15 phút, ngày 24/4/2018, Lò Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,07 gam thuốc phiện trong hòm gỗ để trong buồng ngủ của bị cáo với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại nhà của bị cáo D ở bản TP 1, xã S, huyện NP.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội D gì làm thay đổi nội D của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, phù hợp với kết quả điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 25/4/2018; Kết luận giám định số 446/GĐ-PC54, ngày 06/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên. Vì vậy HĐXX kết luận bị cáo Lò Văn D đã có hành vi phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249/BLHS.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hơp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm nhằm răn đe giáo duc đối với bi cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo. Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sư.̣ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249/BLHS, xét thấy bị cáo Lò Văn D có hoàn cảnh gia đình khó khăn (có biên bản xác minh của cơ quan điều tra về tình trạng tài sản thực tế) nên HĐXX miễn hình bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Lò Văn D khai nhận đã mua ma túy của người đàn ông không biết tên tuổi và địa chỉ ở đâu vào cuối tháng 3 năm 2018. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, không có cơ sở để xác minh và xử lý đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo và buộc bị cáo Lò Văn D phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với 2,07 gam thuốc phiện (Sau khi đã trừ mẫu gủi giám định, không hoàn lại) là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khaonr 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: HĐXX xét thấy gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo theo quy định của Chính phủ nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

[2] Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và điểm b khoản 1 Điều 249/BLHS: Xử phạt bị cáo Lò Văn D 15 (Mười lăm) tháng tù, kể từ ngày bắt: 24/4/2018.

[3] Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS; tịch thu tiêu huỷ 2,07 (Hai phẩy không bẩy) gam thuốc phiện (Sau khi đã trừ mẫu gửi giám định, không hoàn lại), theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện NP.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016: Bị cáo Lò Văn D được miễn án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

[5] Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:55/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về