Bản án 55/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 55/2018/HS-ST NGÀY 13/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 13 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2018/TLST-HS, ngày 24 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2018/QĐXXST-HS ngày 30/5/2018, đối với bị cáo:

ĐỖ VĂN H, sinh ngày 27/10/1987, tại Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Tổ10, phường Y, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; con ông: Đỗ Cao Th và bà Bùi Thị M; có vợ là Nguyễn Thị Ng và 01 con (sinh năm 2007); tiền sự: Không; tiền án: Ngày 24/10/2012, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong án phạt tù ngày 18/03/2016; ngày 19/8/2016 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, trọng lượng Heroine là 0,028g (đã lấy Bản án số 113/2012/HSST ngày 24/01/2012 để làm tình tiết định tội) đã chấp hành xong toàn bộ Bản án ngày 12/12/2017; nhân thân: Ngày 18/8/2004 Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; ngày 27/9/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù, tổng hợp với 06 tháng tù của Bản án số 42/2004/HSST ngày 28/7/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang là 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 03/3/2008, Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày từ ngày 30/01/2018, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Đỗ Văn H là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 13 giờ ngày 28/01/2018, bị cáo đi xe ô tô khách đến Bến xe thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại cổng Bến xe khách thành phố Th, bị cáo gặp và mua của một người đàn ông ( không biết tên, địa chỉ nơi ở) được 01 gói Heroine với số tiền 450.000 đồng, bị cáo cất giấu gói Heroine vào trong người và đi xe khách về nhà, bị cáo lấy một ít Heroine vừa mua được ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể; số còn lại bị cáo chia thành 12 gói nhỏ, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Đến khoảng 10 giờ ngày 30/01/2018, bị cáo đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, Biển kiểm soát: 22B1-591.92 (thuộc sở hữu của ông Đỗ Cao Th, bố đẻ của bị cáo) mang theo 01 gói bọc ngoài bằng nilon màu hồng, bên trong có 05 gói Heroine bọc bằng giấy bạc màu vàng đến khu vực Bệnh viện Đ tỉnh Tuyên Quang, thuộc tổ 20, phường T, thành phố T thì gặp Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Tuyên Quang phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 05 gói Heroine.

Hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày 30/01/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Tuyên Quang tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của bị cáo, thu giữ 07 gói nhỏ Heroine (trong đó có 06 gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng; 01 gói nhỏ bọc bên ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ). Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma tuý đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính. Quá trình điều tra, ngoài Heroine, cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel (đã qua sử dụng); 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Văn H.

Tại Kết luận giám định số 100/GĐKTHS ngày 01/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ khi bắt giữ Đỗ Văn H gửi giám định là Heroine; khối lượng 0,226g (không phẩy hai hai sáu gam).

Tại Kết luận giám định số 101/GĐKTHS ngày 01/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo Đỗ Văn H gửi giám định là Heroine; khối lượng 0,178g (không phẩy một bảy tám gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 54/CT-VKSTP ngày 22 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel (đã qua sử dụng) + 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Văn H nhưng tạm giữ lại chiếc điện thoại di động để đảm bảo việc thi hành án; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Đỗ Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 100/GĐKTHS và số 101/GĐKTHS, ngày 01/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Đỗ Văn H nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang, Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn H tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản khám xét; vật chứng thu giữ; kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ ngày 30/01/2018, tại tổ 20, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Đỗ Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,226g (không phẩy hai hai sáu gam) Heroine; hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày, tại nơi ở của Đỗ Văn H thuộc tổ10, phường Y, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang , bị cáo Đỗ Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,178g (không phẩy một bảy tám gam) Heroine.Tổng khối lượng Heroine Đỗ Văn H tàng trữ là 0,404g (không phẩy bốn không bốn gam). Mục đích tàng trữ là để sử dụng Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệ m hình sự, có hành vi tàng trữ Heroine mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tuy trước khi phạm tội, bị cáo đã có 02 tiền án (ngày 24/10/2012, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại bản án số 113/2012/HSST; ngày 19/8/2016 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, trọng lượng Heroine là 0,028g tại bản án số 68/2016/HSST), tuy nhiên do bản án sau (bản án số 68/2016/HSST ngày 19/8/2016) đã sử dụng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo trong bản án số 113/2012/HSST ngày 24/01/2012 để làm tình tiết định tội (do trọng lượng Heroine bị cáo tàng trữ chưa đủ định lượng), do vậy bị cáo chỉ bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Tái phạm" quy định tại điểm h Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra bị cáo còn có 03 lần khác bị Tòa án xét xử về hành vi phạm tội (ngày 18/8/2004 Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; ngày 27/9/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù, tổng hợp với 06 tháng tù của Bản án số 42/2004/HSST ngày 28/7/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt là 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 03/3/2008, Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy) nhưng do trước khi phạm tội lần này bị cáo thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích nên ba lần phạm tội này không tính là tiền án để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang; bị cáo có nhân thân xấu do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng Heroine mà bị cáo tàng trữ cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 11/QĐ-XPVPHC ngày 05/02/2018 (phạt cảnh cáo); đối với người đàn ông, theo bị cáo khai đã bán Heroine cho bị cáo tại Bến xe khách thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên, nhưng không xác định được họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng: Đối với 02 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Đỗ Văn H và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang (bên trong đều có chứa Heroine), là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel (đã qua sử dụng); 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Văn H, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại chiếc điện thoại di động để đảm bảo việc thi hành án.

[9] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 30/01/2018.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ: 02 (hai) phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Đỗ Văn H và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang (bên trong đều có chứa Heroine).

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Itel đã qua sử dụng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Văn H nhưng tạm giữ lại chiếc điện thoại di động để đảm bảo thi hành án.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 29/5/2018.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đỗ Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:55/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về