Bản án 55/2018/HS-ST ngày 04/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 55/2018/HS-ST NGÀY 04/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên T phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2018/TLST- HS ngày 06 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59 ngày 20 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế T, sinh năm 1991 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: 9/146, đường L, phường G, quận N, T phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Phạm Thị Nh; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 109/2015/HSST ngày 16/12/2015, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.000.000 đồng, ra tù ngày 11/6/2016, chưa được xóa án tích), tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 20/3/2018 đến ngày 23/3/2018 chuyển tạm giam. Có mặt.

- Bị hại:

Chị Nguyễn Thị Ph sinh năm 1977; địa chỉ: Số 47, tổ dân phố 2, thị trấn N, huyện T, T phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do T thường xuyên đến cửa hàng tạp hóa của chị Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1977 ở số 47, tổ dân phố 2, thị trấn NN, huyện T, Thành phố Hải Phòng để mua hàng nên biết chị Ph có nhiều sơ hở vì vậy Nguyễn Thế T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị Ph mang bán lấy tiền chi tiêu cá nhân và sử dụng ma túy. Thực hiện ý định của mình, khoảng 10 giờ ngày 18/3/2018, T điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thị Bích Ng, sinh năm 1995 ở phường H, quận L, thành phố Hải Phòng là bạn quen biết xã hội của T đến cửa hàng tạp hóa của chị Ph. T không nói cho Ng biết ý định chiếm đoạt tài sản của mình. Đến nơi, T bảo Ng đứng ngoài đợi để T vào mua hàng hóa. T đi vào trong quán gặp chị Ph giả vờ hỏi mua 05 cây thuốc lá Vinataba, 05 cây thuốc lá 555, 05 cây thuốc lá Caraven đều do Việt Nam sản xuất. Chị Ph lấy thuốc lá cho vào túi nylon màu xanh. Lúc này trong quán có một số người nên T chưa lấy được số tài sản trên nên đã giả vờ hỏi chị Ph mua tiếp 05 kg hạt bí và 02 hộp trà đào. Khi chị Ph quay vào nhà lấy hàng cho T thì lợi dụng lúc cửa hàng không có ai để ý T đã xách túi nylon đựng 15 cây thuốc lá trên đi ra chỗ Ngọc đang đợi ở cửa. T bảo Ngọc chở đến khu vực trước của quán Shin’s Coffee ở xã T, huyện Th, thành phố Hải Phòng. T bảo Ng đi về, còn T đón taxi đến khu vực chợ Đổ bán 15 cây thuốc lá trên cho một người phụ nữ không quen biết được2.960.000 đồng. Số tiền này T đã ăn tiêu cá nhân hết.

 Ngay sau khi phát hiện T lấy 15 cây thuốc lá của mình, chị Ph đã đến Công an thị trấn Núi Đèo trình báo.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 22/3/2018 kết luận: giá trị 05 cây thuốc lá Vilataba là 900.000đồng, 05 cây thuốc lá Caraven là 980.000đ, 05 cây thuốc lá 555 là 1.750.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 15 cây thuốc lá mà T chiếm đoạt của chị Ph là 3.630.000 đồng.

Đến ngày 20/3/2018, phát hiện T đang ở quán Shin’s Coffee thì chị Ph đã báo cơ quan công an đến đưa T về trụ sở Công an thị trấn Núi Đèo làm việc. Ngày 20/3/2018, Nguyễn Thế T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy

Nguyên ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thế T khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên. Số tiền có được từ việc chiếm đoạt tài sản của chị Ph, T ăn tiêu cá nhân 2.731.000 đồng, không cho người khác, còn lại 229.000 đồng bị công an thu giữ.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Bích Ng khai: Ngọc là bạn của T. Ng không biết và không liên quan đến việc T lấy trộm thuốc lá của chị Ph. Khi thấy T bảo đợi ở khu vực trước cửa hàng của chị Ph, Ng nghĩ T vào cửa hàng để mua hàng hóa. Sau đó, Ng chở T về nơi làm việc là quán Shin’s Coffee rồi đi về nhà, Ngọc không biết T đi đâu làm gì. Vấn đề dân sự: Chị Ph yêu cầu T bồi thường số tiền 3.630.000 đồng. Hiện tại T chưa bồi thường số tiền trên cho chị Ph.

Bản cáo trạng số 61/CT-VKS ngày 05 tháng 6 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên T phố Hải Phòng đã truy tố Nguyễn Thế T về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng đã truy tố: Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1

Điều 173; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tại Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản, thu nhập nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: số tiền 229.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thế T trả lại cho chị Nguyễn Thị Ph. Về dân sự: Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai có trong hồ sơ thể hiện chị Ph yêu cầu T bồi thường số tiền 3.630.000 đồng. Xét yêu cầu bồi thường của chị Ph là có căn cứ nên buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền 3.401.000 đồng cho chị Ph.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn nhận được sự khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi lợi dụng sơ hở,lén lút chiếm đoạt 15 cây thuốc lá (05 cây thuốc lá Vinataba, 05 cây thuốc lá 555,05 cây thuốc lá Caraven) trị giá 3.630.000 đồng của chị Nguyễn Thị Ph vào ngày 18/3/2018. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên chứng cứ xác định không có tội bị loại trừ.

 [3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần thiết phải có hành phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, T phố Hải Phòng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thiệt hại gây ra không lớn là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, h Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [4] Về hình phạt: Với phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo với mức án bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

 [5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Số tiền 229.000 đồng thu giữ của bị cáo (là số tiền còn lại sau khi ăn tiêu hết 2.731.000 đồng có được từ việc chiếm đoạt tài sản của chị Ph) cần trả cho chị Ph.

 [6] Về dân sự: Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai có trong hồ sơ thể hiện chị Ph yêu cầu T bồi thường số tiền 3.630.000 đồng. Xét yêu cầu bồi thường của chị Ph là có căn cứ nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo tiếp tục phải bồi thường số tiền 3.401.000 đồng cho chị Ph.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, h, khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 20/3/2018.

Về dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử: Bị cáo Nguyễn Thế T bồi thường cho người bị hại chị Nguyễn Thị Ph số tiền 3.401.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:Trả cho chị Nguyễn Thị Ph số tiền 229.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thế T.(Chi tiết tại Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 01 tháng 6 năm 2018, đơn vị trả tiền: Công an huyện Thủy Nguyên, đơn vị nhận tiền: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên tại Kho bạc Nhà nước huyện Thủy Nguyên);

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Thế T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày bản án được giao cho hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2018/HS-ST ngày 04/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:55/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về