Bản án 54/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 54/2019/HSST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:53/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Ngọc T, sinh ngày 15/11/1984 tại xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn D, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 (đã chết) và bà Đ; bị cáo đã ly hôn vợ và có 02 con; tiền án: không; tiền sự: có 01 tiền sự, ngày 16/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 01 năm 06 tháng đến năm 2018 chấp hành xong. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2019 đến ngày 01/6/2019 chuyển tạm giam. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tiền Hải, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

+Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Mạnh Th, sinh năm 1981 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện H, Thái Bình.

- Ông Trương Văn Đ, sinh năm 1963 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn D, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 29/5/2019 do nghiện ma túy nên Trần Ngọc T đi bộ từ nhà ra khu vực bến đò Bồng He, thuộc địa phận thôn T, xã N, huyện H mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây T gặp một người đàn ông không biết tên, địa chỉ hỏi mua ma túy. Người đàn ông đó đồng ý bán. T đưa cho người đàn ông 100.000 đồng. Người đàn ông đó nhận tiền rồi đưa lại cho T một gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Biết đó là ma túy, T nhận và cất vào túi quần sau bên trái rồi đi về. Đến 11 giờ15phút khi đi đến khu vực trước cửa nhà ông Phạm Hồng T ở Thôn D, xã N, huyện H, T bị Công an huyện Tiền Hải phát hiện yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Qua giải thích, T khai nhận đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an huyện Tiền Hải đã đưa T về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã N, huyện H để làm việc, tại đây T đã tự giác dùng tay trái lấy từ túi quần sau bên trái của T 01 gói ma túy, 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng giao nộp cho cơ quan Công an và khai nhận đó là gói ma túy T vừa mua về mục đích để sử dụng cho bản thân. Công an huyện Tiền Hải đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý, niêm phong vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số 186/KLGĐ-PC09 ngày 29/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2032 gam.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố đối với bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 56/CT-VKSTH ngày 25/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Ngọc T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T từ 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo sau khi hoàn giám định còn lại là 0,1719 gam và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

- Về án phí: Áp dụng điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23,Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên về bản luận tội.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người làm chứng không khiếu nại hay có ý kiến gì. Nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Tiền Hải lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 29/5/2019.

- Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Tiền Hải lập cùng ngày 29/5/2019.

- Bản kết luận giám định số 186/KLGĐ-PC09 ngày 29/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Lời khai của những người làm chứng là anh Nguyễn Mạnh Th và anh Trương Văn Đ đều trú tại xã N, huyện H.

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào hồi 11 giờ 15 phút ngày 29/5/2019, tại khu vực đường trước cửa nhà ông Phạm Hồng T trú tại Thôn D, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình. Công an huyện Tiền Hải phát hiện và bắt quả tang Trần Ngọc T có hành vi tàng trữ phép 01 gói Hêrôin có khối lượng 0,2032 gam mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ……………………………………………………………………………

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…………………………………………………………………………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, làm suy thoái nòi giống con người, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo: Ngày 16/3/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Về tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt:

- Về hình phạt chính: Trong lúc Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh với tệ nạn ma túy để đẩy lùi ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng sau khi cai nghiện xong tại trung tâm cai nghiện, trở về với cộng đồng bị cáo không chịu tu chí cai nghiện mà lại tiếp tục mua ma túy về để sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo cần thiết phải xử phạt bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt tù cho bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

- Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích bán kiếm lời nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Số Heroine thu giữ của bị cáo sau khi hoàn giám định còn lại là 0,1719 gam và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng đây là loại nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7]. Về nguồn gốc số Heroine: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai số Heroine cơ quan Công an thu giữ của bị cáo là do bị cáo mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi và địa chỉ tại khu vực bến đò Bồng He. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không có căn cứ để xử lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 50, điều 38, điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 điều 106, khoản 2 điều 136; điều 331, điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 29/5/2019.

3/ Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy sau khi đã hoàn giám định còn lại là 0,1719 gam và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

(Vật chứng của vụ án đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/7/2019 giữa Công an huyện Tiền Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải).

4/ Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/8/2019

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về