TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 54/2019/HSST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2019/HSST ngày 03 tháng 4 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:
Quàng Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1998 tại: Huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Đ, xã C P, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Quàng Văn Đ, sinh năm: 1978 và bà Quàng Thị T, sinh năm: 1980; bị cáo có vợ là: Lò Thị D, sinh năm: 2000 và có 01 con 01 tuổi; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 04/01/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 12 giờ 00 phút ngày 04/01/2019, tại khu vực bản P, xã T M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Quàng Văn T ( SN: 1998, trú tại: Bản Đ – C P - Thuận Châu - Sơn La) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng ( Theo đối tượng T khai nhận là Heroine );
- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa một ít mảnh bột màu hồng ( Theo đối tượng T khai nhận là ma túy tổng hợp);
- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại WAVE, BKS: 26M1 – 125.04.
Kết quả cân tịnh số bột cục màu trắng và màu hồng thu giữ của đối tượng Tuấn như sau:
- Số bột cục màu trắng trong gói ni lon màu trắng có khối lượng 0,16 gam, trích rút 0,10 gam đánh ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại 0,06 gam ký hiệu T2 nhập kho vật chứng.
- Số bột cục màu hồng trong gói ni lon màu trắng có khối lượng 0,06 gam, trích rút toàn bộ 0,06 gam đánh ký hiệu T3 làm mẫu vật gửi giám định.
Tại bản Kết luận giám định số: 196/KLMT ngày 09/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy; loại chất Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T3 là chất ma túy; loại chất Methamphetamine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,06 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam loại Heroine và 0,06 gam loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Quàng Văn T đã khai nhận như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/01//2019, Quàng Văn T một mình điều khiển xe máy BKS: 26M1 – 125.04 từ bản Dồm, xã Púng tra, huyện Thuận Châu đến bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi vào trong bản Thôm, xã Thôm Mòn thì T gặp và mua được của 01 người phụ nữ dân tộc Thái không quen biết ( Đứng bên đường ) 50.000đ Heroin và 20.000đ hồng phiến được gói riêng bằng 02 gói ni lon màu trắng. Sau khi mua được ma túy thì T dấu vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về nhà vợ ( Bản Dồm - Púng tra - Thuận Châu ). Tuy nhiên khi Tuấn vừa mới đi đến đoạn khu vực bản Phé, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, thì bị tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang cùng với vật chứng là 02 gói ma túy như đã nêu ở trên.
Tại bản Cáo trạng số: 49/CT-VKS ngày 03/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Quàng Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Quàng Văn T, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 14 đến 18 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng:
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số chứng gồm: 0,06 gam Heroine ( Số còn lại sau khi trích rút gửi giám định ), 01 phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 04/01/2019 + 02 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
Chấp nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan Điều tra đã giao trả 01 chiếc xe máy BKS: 26M1 – 125.04 cho chủ sở hữu là ông Quàng Văn Đôi.
Tại phiên tòa bị cáo T có ý kiến: Thừa nhận do nghiện ma túy từ năm 2017 nên ngày 04/01/2019 đã đi mua ma túy về để sử dụng cho bản thân, bị phát hiện bắt quả tang cùng với số vật chứng gồm: 0,16 gam Heroin và 0,06 gam Methamphetamine. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về nội dung: Ngày 04/01/2019, bị cáo Quàng Văn T ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép 02 loại chất ma tuý ( 0,16 gam Heroine + 0,06 gam Methamphetamine = 0,22 gam ) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Quàng Văn T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này .”.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng: Không.
[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.
[8] Xử lý vật chứng:
- Đối với 0,06 gam Heroine ( Số còn lại sau khi trích rút 0,10 gam Heroine và 0,06 gam Methamphetamine gửi giám định ) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.
- Đối với việc xử lý vật chứng của cơ quan Điều tra đã giao trả lại chiếc xe máy BKS: 26M1 – 125.04 cho chủ sở hữu là ông Quàng Văn Đ. Xét là có căn cứ chấp nhận bởi lẽ: Khi cho bị cáo mượn xe ông Đ ( Chú ruột bị cáo ) không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy.
[9] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người phụ nữ dân tộc Thái không quen biết tại bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Nên cơ quan Điều tra không có cơ sở, để điều tra làm rõ.
[10] Bị cáo thuộc hộ gia đình cận nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 - điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
- Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 04/01/2019 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).
Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;
* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.
2. Xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho ký hiệu T2 = 0,06 gam là Heroine.
Vụ Quàng Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 04/01/2019 + 02 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
3. Án phí
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Miễn cho cáo không phải nộp án án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 54/2019/HSST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 54/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về