Bản án 54/2018/HNGĐ-ST ngày 12/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 54/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12/9/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 229/2018/TLST-HNGĐ ngày 21/6/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2018/QĐXXST – HNGĐ ngày 13/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 43/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31/8/2018, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Q, sinh năm 1993 (Có mặt).

* Bị đơn: Anh Hà Văn H, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Đều HKTT: Tổ dân phố T, phường X, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kim Q trình bày:

Chị và anh Hà Văn H kết hôn năm 2011, đăng ký tại UBND phường X, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Chị và anh H kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn chị và anh H về chung sống với nhau ngay cùng gia đình nhà anh H tại phường X, thành phố B.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Bắt đầu đến năm 2012, thì cuộc sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp, anh H không chịu làm ăn nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Đến tháng 4/2016, do mâu thuẫn về kinh tế mà anh H thường xuyên đánh đập chị và đòi chị đưa tiền nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay và không quan tâm gì đến nhau.

Nay chị xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh H nữa, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung là Hà Nhật H, sinh ngày 03/8/2012, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị và anh H tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại chị đang làm nghề sơn sửa móng tay, thu nhập bình quân 5.000.000 đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi con.

- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị xác nhận vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Biên bản xác minh ngày 16/7/2018, đại diện chính quyền địa phương tổ dân phố T, phường X, thành phố B, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Chị Q và anh H là vợ chồng, hiện vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương. Trong quá trình chung sống tại địa phương, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, từ đó cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện vợ chồng đã ly thân, Chị Q không sống chung cùng với anh H tại địa phương từ lâu. Ngoài ra, tại địa phương, anh H không có việc làm ổn định, thu nhập thì thất thường.

Đối với bị đơn là anh Hà Văn H, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần tống đạt giấy báo làm việc, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải cũng như quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh H vẫn vắng mặt, không có lý do và không có quan điểm thể hiện việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, Chị Q giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử:

+ Cho chị Nguyễn Thị Kim Q được ly hôn anh Hà Văn H.

+ Về con chung: Giao cho Chị Q trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hà Nhật H, sinh ngày 03/8/2012. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, không đặt ra xem xét giải quyết.

+ Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của Chị Q thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, giải quyết nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh H đã được Toà án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt đối với anh H.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Q và anh H kết hôn ngày 26/8/2011 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã X (nay là phường X), thành phố B, tỉnh Bắc Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, qua xác minh tại địa phương thì thấy cuộc sống vợ chồng đã có những mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Hiện tại, vợ chồng đã ly thân, không còn chung sống cùng với nhau. Chị Q xác nhận không còn tình cảm vợ chồng với anh H nữa. Có thể thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, Toà án đã triệu tập anh H lên làm việc nhiều lần nhưng anh H đều vắng mặt, không có lý do. Điều đó, chứng tỏ anh H không còn tha thiết níu giữ quan hệ hôn nhân với Chị Q. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để xử Chị Q được ly hôn anh H.

[3] Về con chung: Chị Q và anh H có 01 con chung là Hà Nhật H, sinh ngày 03/8/2012. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh H không có quan điểm thể hiện việc có nguyện vọng nuôi con chung hay không. Mặt khác, Chị Q lại tha thiết được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và từ khi vợ chồng ly thân đến nay, cháu H vẫn đang sinh sống cùng với Chị Q, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường.

Hơn nữa, Chị Q hiện có việc làm với thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi con, còn anh H thì không có việc làm, thu nhập không ổn định. Do đó, việc giao con chung cho Chị Q trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim Q được ly hôn anh Hà Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung Hà Nhật H, sinh ngày 03/8/2012 cho Chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh H có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai số AA/2016/0000094 ngày 21/6/2018. Xác nhận Chị Q đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2018/HNGĐ-ST ngày 12/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về