Bản án 539/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T.N, TỈNH T.N

BẢN ÁN 539/2019/HSST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố T.N mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 544/2019/HSST ngày 23 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Nông Văn Đ, sinh ngày 06/8/1996 HKTT: Xóm P 2, xã Y.N, huyện P.L, tỉnh T.N.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: không. Con ông Nông Văn B, sinh năm 1972; con bà Chu Thị L, sinh năm 1973; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; chưa có vợ, con. Tiên an: Không.

Tiền sự: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 12/QĐ-TA ngày 19/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện P.L, tỉnh T.N buộc Đ phải chấp hành thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong ngày 23/8/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi chứng kiến: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1973, vắng mặt.

HKTT: Tổ B, phường HVT, TP T.N, tỉnh T.N

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 55 phút ngày 15/7/2019, tổ công tác Công an phường HVT phối hợp với đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an thanh phô T.N đang làm nhiệm vụ tại khu vực chợ Đ.Q thuộc tô 23, phương Q.T, thành phố T.N phát hiện môt nam thanh niên có biểu hiện nghi vân liên quan đ ến ma tuý. Tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai là Nông Văn Đ. Trong quá trình kiểm tra, Đ tự giác giao nộp cho tổ công tác từ lòng bàn tay trái 01 gói nilon bên trong có chứa 05 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng. Đ khai số chất bột màu trắng là Heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nông Văn Đ và thu gi ữ vật chứng theo đúng quy định.

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định số chất bột màu trắng trong 05 gói giấy bạc màu vàng thu giữ của Nông Văn Đ có khối lượng 0,109 gam.

Tại kết luận giám định số 1065/KL-KTHS ngày 23/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.N kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nông Văn Đ là chất ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,109 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nông Văn Đ khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 15/7/2019, Đ đi xe buýt một mình từ nhà xuống thành phố T.N để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 11 giờ, Đ đến thành phố T.N và xuống xe buýt ở điểm dừng trước cổng Đại học Y dược T.N. Tại đây, Đ gặp một người đàn ông không quen biết tên “Vũ” mua 01 gói ma túy Heroine với giá 200.000 đồng. Mua xong, Đ cầm gói ma túy đi đến khu vực trường mầm non Q.T thuộc phường Q.T, thành phố T.N để sử dụng một phần ma túy vừa mua được, số còn lại Đ chia ra thành 05 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc màu vàng để sử dụng dần. Sau đó, Đ đi đến khu vực chợ Đ.Q, thành phố T.N để bắt xe buýt về nhà thì bị cơ quan công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 536/CT-VKSTPTN ngày 20/9/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T.N truy tố Nông Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn Đ khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N trình bày lời luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Nông Văn Đ từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: xử lý theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu Đ.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại phần lời nói sau cùng bị cáo xác định đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T.N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 13 giờ 55 phút ngày 15/7/2019, tại khu vực tổ 23, phường Q.T, thành phố T.N, Nông Văn Đ đang có hành vi tàng trữ 0,109 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường HVT phối hợp với đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thanh phô T.N phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N truy tố bị cáo Nông Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, ma túy còn là hiểm họa cho xã hội, phát sinh các tệ nạn xã hội, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, do đó Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết bài trừ tệ nạn này ra khỏi xã hội, bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án nhưng đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tuy nhiên bị cáo vẫn không từ bỏ được ma túy, không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 BLHS.

Theo xác minh tại địa phương: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu Đ cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác:

Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Mức án vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Đ khai mua của 01 người đàn ông không quen biết tên Vũ tại khu vực cổng trường Đại học Y dược T.N. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T.N không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý là phù hợp quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

[2]. Về hình phạt: căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Nông Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[3]. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu Đ, mặt sau bì đều có 02 dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh T.N và chữ ký ghi họ tên Trương Đăng T (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 545 ngày 20/9/2019 giữa Công an thành phố T.N và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.N).

[4]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

[5]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 539/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:539/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về