Bản án 53/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 53/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 18 tháng 4 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 44/2019/HSST ngày 08 tháng 4 năm 2019; Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn số 01/2019/QĐ-TA ngày 09 tháng 4 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐ-HSST ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: HỒ ĐÌNH H. Tên gọi khác: Tý. Sinh ngày 10 tháng 3 năm 1988. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: 12 - Triệu Việt V, Phường B, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Chỗ ở: 12 - Triệu Việt V, Phường B, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Thợ hồ. Trình độ học vấn: Lớp 8/12. Con ông: Hồ Đình L, sinh năm 1954. Hiện ở tại: Xã Đ, huyện Đơn Dương, Lâm Đồng; Con bà: Nguyễn Thị Ánh N, sinh năm 1964. Hiện ở tại: 46E - Nguyễn S, Phường B, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Tiền án: Tại bản án số 55/2016/HSST ngày 27/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/4/2017. Tiền sự:

1/. Quyết định số 233/QĐ ngày 11/5/2018 của Công an Phường B, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản (Chưa thi hành);

2/. Quyết định số 08/2019/QĐ-TA ngày 08/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Lâm Đồng thời gian 24 tháng, kể từ ngày 11/3/2019.

Nhân thân:

1/ Tại bản án số 154/2012/HSST ngày 21/11/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”;

2/. Ngày 12/3/2013 bị Chủ tịch UBND thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng quyết định đưa vào Cơ sở cai nghiện 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo hiện đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Lâm Đồng từ ngày 11/3/2019. Có mặt.

Người bị hạiÔng Lê Hoàng M, sinh năm 1978. Hộ khẩu thường trú tại: Lô D - Khu qui hoạch T1, Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Đình H là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, do cần tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng, vào khoảng 21 giờ ngày 23/01/2019, Hồ Đình H điều khiển xe mô tô của H, hiệu Kawasaki, loại Max, không có biển số, đi ngang qua công trình đang xây dựng của ông Lê Hoàng M tại: Lô D, Khu qui hoạch Tô Hiến Thành, Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, thấy công trình không có người trông coi nên H dựng xe ở trên lề đường và đi bộ vào công trình. Khi vào đến khu vực tầng trệt, H đã lấy 01 máy hàn điện hiệu Rvicen, màu xanh đen, kèm theo một cuộn dây điện màu đen, dài khoảng 20 mét đang gắn vào máy hàn; 09 cuộn dây điện hiệu Cadivi các màu: xanh, vàng, đỏ, bỏ vào một bao tải, xách ra ngoài cổng công trình để đem đi tiêu thụ, nhưng vừa ra tới cổng công trình thì bị Công an Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng đang tuần tra, phát hiện và lập Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận định giá tài sản số 151 ngày 20/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng xác định: Số tài sản bị cáo Hồ Đình H chiếm đoạt tại công trình xây dựng của ông Lê Hoàng M trị giá 4.125.000 đồng. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại toàn bộ cho ông Lê Hoàng M, ông M không yêu cầu bị cáo phải bồi gì thêm.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS ngày 05/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Hồ Đình H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Đình H khai nhận vào ngày 23/01/2019, bị cáo đã có hành vi lợi dụng sự mất cảnh giác của ông Lê Hoàng M, để tài sản tại công trình xây dựng vào ban đêm, nhưng không có người trông coi, bị cáo đã đột nhập và chiếm đoạt tài sản là các dụng cụ làm điện của ông M với tổng trị giá toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt là 4.125.000 đồng với các hành vi cụ thể như Quyết định truy tố của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay kH nại gì về nội dung Quyết định truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Hồ Đình H đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và lời khai của người bị hại, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo thực hiện việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với tổng trị giá là 4.125.000 đồng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Đình H từ 15 đến 18 tháng tù. Phần bồi thường: Quá trình điều tra người bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản bị mất, hiện nay không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không xem xét. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và xử lý theo qui định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc Khiếu nại nào về hành vi, Quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Đình H: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lợi dụng người bị hại lỏng lẻo, mất cảnh giác và chủ quan trong việc quản lý tài sản của mình, đã lén lút để chiếm đoạt tài sản là những dụng cụ làm điện của người bị hại với tổng trị giá tài sản 4.125.000 đồng với mục đích để đem bán lấy tiền sử dụng cho nhu cầu cá nhân là hành vi trái pháp luật, xâm hại trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Hồ Đình H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như Quyết định truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm vào các tình tiết định khung tăng nặng nào theo qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo có 01 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích”, mới chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/4/2017, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này, bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt là tái phạm theo qui định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị phát hiện, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét bị cáo là người nghiện ma túy, việc làm không ổn định, đã nhiều lần có hành vi trộm cắp tài sản của người khác, sau khi sự việc được phát hiện, Cơ quan điều tra đã cho bị cáo được tại ngoại để điều tra nhưng bị cáo vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và bị đưa đi cai nghiện bắt buộc, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có điều kiện giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ toàn bộ tài sản và trả lại cho người bị hại. Đến nay người bị hại không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không xem xét để giải quyết phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo đối với người bị hại trong bản án này.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có: 01 xe mô tô hiệu Kawasaki, loại Max, không có biển số, bị cáo khai là xe của bị cáo mua, đã làm mất biển số và giấy tờ xe, nhưng qua tra cứu không có dữ liệu trong hồ sơ lưu trữ của Công an tỉnh Lâm Đồng về việc đăng ký xe, việc bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội là do cố ý nên cần tịch thu chiếc xe này để sung quỹ Nhà nước. Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen bạc 063115040, đã qua sử dụng, là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Hồ Đình H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] . Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo: Hồ Đình H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

[3] . Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Kawasaki, loại Max, không có biển số, số máy VDP1P50F/MG602627; số khung 602627. (Không có Giấy tờ đăng ký xe).

+ Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen bạc 063115040 (Đã qua sử dụng).

(Các vật chứng có đặc điểm cụ thể theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt ngày 08/4/2019).

[4] . Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] . Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về