Bản án 527/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 527/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 386/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2741/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Trần Thị Thanh T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: ấp AĐ, xã AĐ, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: anh Lê Quốc D, sinh năm 1986.

Địa chỉ: ấp XT A, xã TT, huyện P, tỉnh Bến Tre. Anh D vắng mặt bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng nguyên đơn Trần Thị Thanh T trình Vào năm 2006 chị với anh Lê Quốc D được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới, hôn nhân tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định, chị với anh D có một con chung tên Lê Trần Quốc H, sinh ngày 26/6/2008, đến năm 2010 chị với anh mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Thuận, huyện P và cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/3/2010. Chị với anh D không tạo lập được tài sản chung, không có nợ chung.

Nguyên nhân chị yêu cầu ly hôn với anh D là do anh D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, làm cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, anh D đối xử không tốt với vợ con. Sự việc này cha mẹ hai bên đều biết, cha mẹ anh D đã k Hên anh D nhiều lần nhưng anh D không thay đổi, còn chị thì không mong muốn hàn gắn với anh D nên tháng 12 năm 2018 chị yêu cầu ly hôn với anh D, do gia đình hai bên động viên, hòa giải nên chị tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện để đoàn tụ với anh D và Tòa án nhân dân huyện P đã đình chỉ việc giải quyết ngày 27/12/2018. Sau đó anh D vẫn không thay đổi nên chị nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị với anh D không thể hàn gắn được do đó chị khởi kiện lại đối với anh D.

- Về hôn nhân: chị yêu cầu ly hôn với anh Lê Quốc D. Khi ly hôn chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng cho chị.

- Về con chung: chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Lê Trần Quốc H, sinh ngày 26/6/2008, chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết

- Về nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn Lê Quốc D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần các thông báo nhưng anh D vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không cung cấp chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về trình thự thủ tục: Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử. Nguyên đơn Trần Thị Thanh T đã thực hiện đúng qui định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn Lê Quốc D chưa thực hiện đúng qui định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ lời trình bày của chị T và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; xét thấy: tình trạng hôn nhân giữa đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

- Về thẩm quyền: anh Lê Quốc D có đăng ký hộ khẩu tại ấp XT A, xã TT, huyện P, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về tố tụng:

Nguyên đơn Trần Thị Thanh T có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt chị T.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho anh Lê Quốc D các văn bản tố tụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự anh D đều không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

[2] Về hôn nhân: Vào năm 2006 chị T và anh D tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng, đến tháng 03 năm 2010 chị với anh D mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Thuận, huyện P và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/3/2010. Do đó, việc kết hôn và đăng ký kết hôn của chị T và anh D là phù hợp với qui định của pháp luật nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo chị T, nguyên nhân chị yêu cầu ly hôn với anh D là do anh D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, làm cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, anh D đối xử không tốt với vợ con. Sự việc này cha mẹ hai bên đều biết, cha mẹ anh D đã k Hên anh D nhiều lần nhưng anh D không thay đổi, còn chị thì không mong muốn hàn gắn với anh D nên tháng 12 năm 2018 chị yêu cầu ly hôn với anh D, do gia đình hai bên động viên, hòa giải nên chị tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện nên ngày 27/12/2018 chị tự nguyện rút đơn khởi kiện và Tòa án nhân dân huyện P đã đình chỉ việc giải quyết vụ án. Sau đó anh D vẫn không thay đổi nên chị nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị với anh D không thể hàn gắn được do đó chị khởi kiện lại để yêu cầu ly hôn với anh D. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các thông báo, quyết định của Tòa án nhằm tạo điều kiện để chị T và anh D hòa giải với nhau nhưng anh D vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh D đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do chị T không yều cầu anh D phải cấp dưỡng sau khi ly hôn nên không xem xét giải quyết.

[3] Về con chung: từ khi chị T và anh D không còn sống chung cho đến nay chị Tiên là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Trần Quốc H, anh D ít tới lui thăm con chung, tại biên bản lấy ý kiến của cháu Lê Trần Quốc H ngày 17/9/2019, cháu Quốc H có nguyện vọng sống chung với chị T. Lẽ đó, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên cần giao cháu Lê Trần Quốc H, sinh ngày 26/6/2008 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Do chị T không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

Anh Lê Quốc D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết anh Lê Quốc D có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và cấp dưỡng nuôi con, chị Trần Thị Thanh T có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết

[5] Về nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Trần Thị Thanh T phải nộp án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, 39, 147, 227, 228 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thanh T.

1. Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Thanh T. Chị Trần Thị Thanh T được ly hôn với anh Lê Quốc D. Chị T không yều cầu anh D cấp dưỡng khi ly hôn.

2. Về con chung: chị Trần Thị Thanh T được trực tiếp nuôi con chung tên Lê Trần Quốc H, sinh ngày 26/6/2008. Chị T không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Lê Quốc D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết anh Lê Quốc D có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và cấp dưỡng nuôi con, chị Trần Thị Thanh T có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết

4. Về nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

5. Veà aùn phí Hôn nhân và gia đình sơ thaåm: chị Trần Thị Thanh T phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003941 ngày 28 tháng 6 năm 2019 và đã nộp xong.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tình từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 527/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:527/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về