TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2020/TLST-HS ngày 24/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST-HS ngày 04/9/2020 đối với bị cáo:
ĐẶNG VĂN T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 11/01/1994 tại huyện C, tỉnh T;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở hiện nay: Thôn KC, xã K, huyện C, tỉnh T; quốc tịch: Việt Nam; dân Tộc: Dao; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đặng Văn T1 và bà Bàn Thị M; vợ, con: Chưa có; anh chị em ruột có 5 người bị cáo là thứ 05;
Tiền án: Bản án số 05/2014/HSST, ngày 11/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T tuyên phạt 08 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2020.
Tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Văn T đã có tiền án, tại bản án số 05/2014/HSST ngày 11/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 22/5/2020, T một mình đi bộ từ nhà ra đường, sau đó đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết sang xã L, huyện CĐ, tỉnh B mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến thôn B, xã L, huyện CĐ, tỉnh B, T xuống xe đi bộ khoảng 200m thì gặp một người đàn ông không quen biết đứng một mình ở lề đường, trông giống người nghiện ma túy, T hỏi và mua được 01 gói nhỏ Heroine có đặc điểm bên ngoài gói bằng nilon màu trắng, tiếp đến là lớp giấy bạc màu vàng, trong cùng chứa chất bột màu trắng với giá 100.000 đồng, mua được Heroine, trên đường về vào chỗ vắng người, T lấy gói Heroine san ra một ít để sử dụng bằng cách tiêm chích vào cơ thể, số còn lại T gói lại như cũ và cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc, sau đó về nhà. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày khi T về đến thôn N, xã K, huyện C, tỉnh T thì bị tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa phát hiện, nghi tàng trữ trái phép chất ma túy, tổ công tác đã mời T về UBND xã K để làm việc, tại đây T đã tự nguyện giao nộp gói ma túy trên, tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.
Tại Biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy hồi 16 giờ ngày 22/5/2020 tại Công an huyện đối với Đặng Văn T, kết quả: (+) Dương tính.
Tại Kết luận giám định số 421/GĐKTHS ngày 25/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại (Heroine); khối lượng 0,054g (Không phẩy không năm bốn gam).
Cáo trạng số: 54/CT-VKSCH ngày 21/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt chính: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 22/5/2020.
Về hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, hộ cận nghèo, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Đặng Văn T, được niêm phong chữ ký xác nhận và có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.
Đối với người đàn ông bán Heroine cho Đặng Văn T quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đặng Văn T Công an huyện Chiêm Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.
Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Đặng Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/5/2020, tại thôn N, xã K, huyện C, tỉnh T, Đặng Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine, khối lượng 0,054g (không phẩy không năm bốn gam), mục đích để sử dụng. Tuy số lượng ma túy bị cáo tàng trữ dưới mức định lượng luật quy định nhưng bị cáo đã từng bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy (Bị cáo chấp hành xong Bản án số 05/2014/HSST ngày 11/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T, ngày 14/01/2020) chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, do đó đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ma Túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tiền án là yếu tố định tội nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", “Dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn " theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Đặng Văn T xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Đặng Văn T, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đặng Văn T, Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét xử lý.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, bị cáo thuộc hộ cận nghèo, dân tộc thiểu số, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Không thực hiện tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc cấm hành nghề làm công việc nhất định đối với bị cáo.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Đặng Văn T, 01 năm 01 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 22/5/2020.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Đặng Văn T. Vật chứng là 01 (một) bì niêm phong bên trong có chứa phần còn lại sau giám định của chất ma túy thu giữ trên người Đặng Văn T theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa lập ngày 22/5/2020. Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.
Đặng Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 16/9/2020.
Bản án 52/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 52/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về