Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 368/2019/TLST-HNGĐ ngày 06/9/2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 672/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 625/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/11/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Bùi Ngọc H; nơi cư trú: Số E đường L, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Lại Ngọc A; nơi ĐKHKTT: Số E đường L, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số L đường vòng V, phường V, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/7/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Bùi Ngọc H trình bày: Anh và chị Nguyễn Lại Ngọc A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào ngày 23/5/2012.

Sau khi kết hôn, vợ chồng hạnh phúc đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, lối sống, vợ chồng thường xuyên đánh cãi chửi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay không liên quan nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Nay anh Hiếu đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Ngọc Anh để anh được ổn định cuộc sống.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Lại Ngọc A có 01 con chung là Bùi Ngọc Mỹ A, sinh ngày 26/5/2012. Nếu được ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con, Về nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con anh Hiếu và chị Ngọc Anh tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Hiếu không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Lại Ngọc A trình bày:

Chị và anh Hiếu lấy nhau năm 2012 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn như anh Hiếu đã trình bày. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 vợ chống phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát. Thực tế vợ chồng đã ly thân nhau từ năm 2017 đến nay không liên quan đến nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Nay anh Hiếu xin ly hôn chị Ngọc Anh không đồng ý vì vợ chồng chưa làm rõ về vấn đề tài sản.

Về con chung: Chị và anh Hiếu có 01 con chung là Bùi Ngọc Mỹ A, sinh ngày 26/5/2012. Nếu được ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con, về nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con chị và anh Hiếu tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Ngọc Anh trình bày tài sản chung gồm có 60.000 USD vợ chồng đầu tư cho chị gái anh Hiếu kinh doanh; 200.000.000 đồng chị Ngọc Anh đưa cho anh Hiếu năm 2010; năm 2014 chị Ngọc Anh có đưa cho anh Hiếu gửi thêm cho chị gái anh Hiếu để mở thên tiệm kinh doanh số tiền là 50.000 USD và một số tiền đưa cho mẹ anh Hiếu mua đất. Quan điểm của chị Ngọc Anh là nếu ly hôn anh Hiếu phải trả hết tiền cho chị Ngọc Anh.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về cuộc sống hôn nhân của anh Hiếu và chị Ngọc Anh. Các lời khai đại diện hai bên gia đình cũng như đại diện của chính quyền địa phương đều thể hiện mâu thuẫn của anh chị là trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc.

Đi với quan điểm nuôi con chung và chia tài sản chung của chị Nguyễn Lại Ngọc A tòa án đã ra Thông báo giao nộp bổ sung tài liệu chứng cứ số 620 ngày 30/10/2019. Hết thời hạn quy định chị Nguyễn Lại Ngọc A không cung cấp được chứng cứ gì.

Tại phiên tòa anh Bùi Ngọc H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn; có nguyện vọng nuôi con chung; về tài sản chung anh Hiếu cho rằng như chị Ngọc Anh trình bày về tài sản chung vợ chồng là không đúng. Anh Hiếu không yêu cầu giải quyết trong vụ án này và sẽ tự thỏa thuận với chị Ngọc Anh, nếu không thỏa thuận được sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác. Chị Nguyễn Lại Ngọc A vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu: Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc thụ lý vụ án cũng như quá trình xây dựng lập hồ sơ và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với các đương sự: Phía nguyên đơn thực hiện đúng quy định pháp luật của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Hiếu và chị Ngọc Anh đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hiếu được ly hôn với chị Ngọc Anh; về con chung anh Hiếu và chị Ngọc Anh có 01 con chung là Bùi Ngọc Mỹ A, sinh ngày 26/5/2012, hiện anh Hiếu và chị Ngọc Anh đều có nguyện vọng được nuôi con. Do cháu Mỹ Anh đang ăn ở, học tập ổn định với anh Hiếu. Mặt khác cháu Mỹ Anh có nguyện vọng được ở với bố nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho anh Hiếu nuôi. Về nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con, anh Hiếu và chị Ngoc Anh tự thỏa thuận không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết; về tài sản chung: Anh Hiếu và chị Ngọc Anh tự thỏa thuận, không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết. Anh Bùi Ngọc H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

- Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chị Nguyễn Lại Ngọc A qua biên bản xác minh tại chính quyền địa phương và tại bản tự khai chị Nguyễn Lại Ngọc A thừa nhận hiện chị đang cư trú tại địa chỉ số 16A đường Vòng Vạn Mỹ, phường Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Chị Nguyễn Lại Ngọc A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[2] Anh Bùi Ngọc H và chị Nguyễn Lại Ngọc A lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải phòng nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Sau khi chung sống vợ chồng không hạnh phúc đến năm 2014 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, lối sống thực tế vợ chồng đã ly thân nhau từ năm 2017 đến nay. Qua xác minh tại chính quyền địa phương và lấy lời khai của đại diện hai bên gia đình đều thể hiện mâu thuẫn vợ chồng anh Hiếu và chị Ngọc Anh là trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án chị Ngọc Anh xác định vẫn còn tình cảm với chồng nhưng không có cách thức để vợ chồng đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống chung của anh Hiếu và chị Ngọc Anh không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần giải quyết cho anh Bùi Ngọc H được ly hôn với chị Nguyễn Lại Ngọc A là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Bùi Ngọc H đối với chị Nguyễn Lại Ngọc A.

+ Về con chung:

[4] Anh Bùi Ngọc H và chị Nguyễn Lại Ngọc A có 01 con chung là Bùi Ngọc Mỹ A, sinh ngày 26/5/2012. Trong quá trình giải quyết anh Hiếu và chị Ngọc Anh đều có nguyện vọng xin được nuôi con, xong quá trình thu thập chứng cứ và lời khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy hiện tại cháu Bùi Ngọc Mỹ A đang ở với anh Hiếu học hành ổn định, anh Hiếu có thu nhập để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt của hai bố con. Mặt khác cháu Bùi Ngọc Mỹ A đã trên 7 tuổi và có nguyện vọng được ở với bố, nên xử giao con chung Bùi Ngọc Mỹ A cho anh Hiếu nuôi là phù hợp.

+ Về tài sản chung:

[5] Nguyên đơn anh Bùi Ngọc H không yêu cầu chia tài sản chung, vợ chồng tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được sẽ khởi kiện bằng vụ án chia tài sản chung của vợ chồng sai khi ly hôn. Chị Nguyễn Lại Ngọc A cho rằng tài sản chung vợ chồng gồm có 60.000 USD vợ chồng đầu tư cho chị gái anh Hiếu kinh doanh; 200.000.000 đồng chị Ngọc Anh đưa cho anh Hiếu năm 2010; năm 2014 chị Ngọc Anh có đưa cho anh Hiếu gửi thêm cho chị gái anh Hiếu để mở thên tiệm kinh doanh số tiền là 50.000 USD và một số tiền đưa cho mẹ anh Hiếu mua đất. Quá trình giải quyêt vụ án Tòa án yêu cầu chị Nguyễn Lại Ngọc A làm đơn khởi kiện bổ sung và cung cấp các tài liệu chứng cứ nhằm chứng minh tài sản chung của anh Hiếu và chị Ngọc Anh hiện có. Chị Ngọc Anh không cung cấp được gì, mặt khác nguyên đơn là anh Hiếu không yêu cầu chia tài sản chung. Vì vậy yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Lại Ngọc A nếu có căn cứ sẽ được tách ra giải quyết bằng một vụ án khác Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

+ Về án phí:

[6] Anh Bùi Ngọc H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Ngọc H được ly hôn với chị Nguyễn Lại Ngọc A.

2. Về con chung: Giao con Bùi Ngọc Mỹ A, sinh ngày 26/5/2012 cho anh Bùi Ngọc H trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung, anh Bùi Ngọc H và chị Nguyễn Lại Ngọc A tự thỏa thuận không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Anh Bùi Ngọc H và chị Nguyễn Lại Ngọc A tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Anh Bùi Ngọc H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh Hiếu đã nộp tại Chi cục Thi hành án quận Ngô Quyền, thành phố Hải phòng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006012 ngày 06/9/2019. Anh Hiếu đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. 5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn anh Bùi Ngọc H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn chị Nguyễn Lại Ngọc A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về