Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 880/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 43/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị P, sinh năm 1991; Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn R, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn Đ, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 12 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bùi Thị P trình bày:

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H kết hôn với nhau do tự nguyện, được tổ chức lễ cưới theo phong tục, được Ủy ban nhân dân xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên cấp Giấy đăng kí kết hôn số 45 ngày 11 tháng 9 năm 2013. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ đó cho đến nay; Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống và phát triển kinh tế, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Do tình cảm không còn, chị P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Phạm Văn H.

Về con chung: Chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H có ba con Phạm Hải N sinh năm 2014, Phạm Phương A sinh năm 2016 và Phạm Minh T sinh năm 2017. Hiện nay cháu T đang ở với chị P, cháu N và cháu A đang ở với anh H. Khi ly hôn chị P nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi cháu T, để cho anh H trực tiếp nuôi cháu N và A; không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai trong quá trình xét xử bị đơn Phạm Văn H trình bày: Thng nhất toàn bộ lời trình bày của chị Bùi Thị P về hôn nhân, con chung và tài sản. Anh H có quan điểm giải quyết vụ án như sau: Không đồng ý ly hôn vì vẫn còn tình cảm với chị P. Trường hợp vợ chồng phải ly hôn, anh nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi con Phạm Hải N và Phạm Phương A, để cho chị P nuôi con Phạm Minh T; không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Bà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, khoản 2 Điều 56, các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử cho ly hôn giữa chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H; giao con Phạm Minh T cho chị Bùi Thị P nuôi, giao con Phạm Hải N và Phạm Phương A cho anh H nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; chị Bùi Thị P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Phạm Văn H đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Phạm Văn H.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến tháng 8 năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, không quan tâm chăm sóc nhau. Vậy, xác định yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị P đã thỏa mãn những căn cứ cho ly hôn quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình, cần giải quyết cho ly hôn giữa chị P và anh H.

[3] Về con chung: Con Phạm Minh T hiện nay đang do chị P nuôi, con Phạm Hải N và Phạm Phương A đang do anh H nuôi. Để không xáo trộn cuộc sống và bảo đảm lợi ích toàn diện của con nên giao con Phạm Minh T cho chị Bùi Thị P nuôi, giao con Phạm Hải N và Phạm Phương A cho anh H nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại các điều 81 và 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H không yêu cầu nên không xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị P và anh H khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Bùi Thị P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Như vậy, ý kiến của bà Kiểm sát viên đã phát biểu tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án là phù hợp pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 92, 147 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H.

Về nuôi con chung: Giao con Phạm Minh T sinh ngày 04 tháng 7 năm 2017 cho chị Bùi Thị P trực tiếp nuôi, giao con Phạm Hải N sinh ngày 23 tháng 01 năm 2014 và Phạm Phương A sinh ngày 06 tháng 01 năm 2016 cho anh Phạm Văn H trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H không yêu cầu nên không xét giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị P và anh Phạm Văn H không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Bùi Thị P phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng biên lai số 0000187 ngày 24 tháng 12 năm 2018. Chị Bùi Thị P đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về