Bản án 51/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 4 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 484/2020/TLST-HNGĐ ngày 02/11/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/03/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 97/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27/4/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 112/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17/5/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Trương Thị Bích L, sinh năm 1991 Địa chỉ: Số S, ấp C, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

* Bị đơn: Phạm Văn G, sinh năm 1990 Địa chỉ: Số S, ấp C, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 26/10/2020, nguyên đơn chị Trương Thị Bích L trình bày: Vào năm 2012, chị và anh Phạm Văn G tự nguyện tổ chức lễ cưới, chung sống với nhau, sau đó anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15/9/2017. Quá trình chung sống, anh chị có ba con chung là cháu Phạm Hoàng H, sinh ngày 17/01/2013, cháu Phạm Trương Tú Q, sinh ngày 23/4/2019 và cháu Phạm Trương Tố Q, sinh ngày 23/4/2019, hiện nay các cháu đang sống chung với chị. Chị và anh G không còn chung sống với nhau từ tháng 6/2020, do anh G không lo làm ăn, không quan tâm vợ con. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh G, xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tú Q và Tố Q, anh G cấp dưỡng nuôi mỗi cháu 1.000.000đ/tháng, còn cháu H muốn sống với ai thì người đó nuôi đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Văn G đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị L.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự và quan hệ pháp luật đang tranh chấp là chính xác, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị L và anh G được ly hôn, giao con chung cho chị L nuôi, anh G cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật, về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Trương Thị Bích L và anh Phạm Văn G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Chị L có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, anh G vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị L và anh G nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt chị L và anh G.

[2] Về hôn nhân: Năm 2012 chị Trương Thị Bích L và anh Phạm Văn G tự nguyện chung sống với nhau, đến năm 2017 anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15/9/2017. Vì vậy, hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị L cho rằng sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh G không lo làm ăn, không quan tâm vợ con nên anh chị thường xuyên cãi nhau, anh chị không còn chung sống với nhau từ tháng 6 năm 2020 cho đến nay, vì vậy, nay chị yêu cầu ly hôn với anh G. Anh G không có ý kiến đối với yêu cầu của chị L. Thấy rằng: Hôn nhân giữa chị L và anh G đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã không còn chung sống với nhau một thời gian đủ lâu nhưng anh chị không có biện pháp hàn gắn tình cảm, không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L, cho chị và anh G được ly hôn để mỗi người tạo lập cuộc sống mới.

[3] Về con chung: Chị L và anh G có ba người con chung là cháu Phạm Hoàng H, sinh ngày 17/01/2013, cháu Phạm Trương Tú Q, sinh ngày 23/4/2019 và cháu Phạm Trương Tố Q, sinh ngày 23/4/2019, hiện nay các cháu đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi cháu Tú Q và Tố Q đến tuổi trưởng thành, còn cháu H muốn sống với ai thì người đó nuôi. Do các cháu đang ở ổn định với chị L, tình cảm anh em khăn khít, gắn bó nhau, cháu H có nguyện vọng tiếp tục chung sống với mẹ. Vì vậy, để ổn định tâm lý và môi trường sống cho các cháu, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao các cháu cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi cháu Tú Q và Tố Q mỗi cháu 1.000.000đ/tháng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Vì vậy, Hội đồng xét xử buộc anh G phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh với chị L. Theo quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Mức cấp dưỡng cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Do chị L và anh G không thỏa thuận được về mức cấp dưỡng, mức cấp dưỡng mà chị L yêu cầu phù hợp thực tế tại địa phương nên Hội đồng xét xử buộc anh G cấp dưỡng nuôi cháu Tú Q và Tố Q mỗi tháng 1.000.000 đồng/cháu. Việc cấp dưỡng được thực hiện kể từ ngày tuyên án cho đến khi các cháu đến tuổi trưởng thành.

[5] Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh G, không ai được quyền ngăn cản.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp và có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[7] Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, anh G phải chịu án phí cấp dưỡng 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Như đã nhận định nêu trên, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 110, Điều 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Bích L.

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Bích L được ly hôn với anh Phạm Văn G.

2/. Về con chung: Giao các cháu Phạm Hoàng H, sinh ngày 17/01/2013, cháu Phạm Trương Tú Q, sinh ngày 23/4/2019 và cháu Phạm Trương Tố Q, sinh ngày 23/4/2019 cho chị Trương Thị Bích L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Phạm Văn G có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Phạm Trương Tú Q và cháu Phạm Trương Tố Q mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng (hai cháu là hai triệu đồng/tháng); thời gian cấp dưỡng kể từ khi tuyên án (03/6/2021) cho đến khi hai cháu đến tuổi trưởng thành. Nghĩa vụ cấp dưỡng này được thi hành ngay.

4/. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Phạm Văn G, không ai được quyền ngăn cản.

5/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trương Thị Bích L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

6/. Về án phí: Chị Trương Thị Bích L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0006742 ngày 30/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Phạm Văn G phải chịu án phí cấp dưỡng là 300.000 đồng.

7/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

8/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:51/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về