Bản án 51/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2020/TLST- HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Quang L, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn L, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ hoc vân : 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Bùi Quang H và bà Đào Thị L1. Gia đình có 2 anh em, bị cáo là thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/6/2020 đến ngày 25/6/2020 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Ông Đồng Văn H1, sinh năm 1972 Trú tại: Thôn H, xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ ngày 24/6/2020, Bùi Quang L tự khai có người đàn ông tên là T đưa cho số tiền 470.000đ để mua ma túy về cùng sử dụng, L đồng ý. L thuê một người lái xe ôm (không rõ tên tuổi, địa chỉ) chở từ khu vực T, phường A, thành phố H về khu vực đê thuộc địa phận xã T, huyện K mua của một người đàn ông L khai là H2 01 gói ma túy đá với số tiền 300.000đ. Sau khi mua được ma túy, L cầm trên tay và người lái xe ôm chờ về khu vực T. Khi đến nơi, L tiếp tục thuê người lái xe ôm khác (không rõ tên tuổi, địa chỉ) chở về nhà nghỉ P ở thôn Đ, xã Đ, huyện N để thuê phòng sử dụng ma túy. Đến 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi L đang ở quầy tiếp đón nhà nghỉ P thuê phòng thì bị công an huyện Nam Sách bắt quả tang và thu giữ trong lòng bàn tay phải của L 01 gói đựng trong túi nilon kích thước 2x3cm bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng.

Tại Kêt luân giam đinh sô 300/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2020, Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hải Dương , xác định: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng ghi thu của Bùi Quang L niêm phong gửi đến giám định có khối lượng 0,348 gam là ma túy loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Về vật chứng: Đối với 0,24 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định;

01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S màu gold, có số Imei 352002063805238;

01 thẻ sim điện thoại có số thuê bao 0986858092 đựng trong 01 phong bì thư niêm phong số 300/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách và Chi cục thi hành án huyện Nam Sách) Tại Cáo trạng số 47/CT-VKS-NS ngày 01/10/2020, Viện kiểm sát nhân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Bùi Quang L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Quang L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Về hình phạt: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo Bùi Quang L từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 24/6/2020; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về vật chứng: căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 300/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương; Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S có số Imei 352002063805238 màu vàng; tịch thu cho tiêu hủy 01 sim điện thoại bị cắt có số thuê bao 0986858092. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Quang L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, VKSND huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Bùi Quang L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 24/6/2020, tại quầy tiếp đón ở nhà nghỉ P ở thôn Đ, xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương, Bùi Quang L có hành vi cất giấu trái phép 0,348 gam ma túy, loại Methamphetamine mục đích sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Nam Sách phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Chất ma túy có tính kích thích thần kinh, có tác hại rất lớn đến sức khỏe của con người cũng như toàn xã hội. Hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng còn là một tệ nạn xã hội và là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,24 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S có số Imei 352002063805238 màu vàng bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước; đối với 01 sim điện thoại bị cắt có số thuê bao 0986858092 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự .

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Đối với người bán ma túy cho L, L khai là H2, quá trình điều tra không làm rõ nhân thân, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

Đi với người đàn ông tên T, L khai là đưa tiền cho L để đi mua ma túy về sử dụng chung tuy nhiên quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Quang L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Quang L 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2020

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 300/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương; Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S có số Imei 352002063805238 màu vàng; tịch thu cho tiêu hủy 01 sim điện thoại bị cắt có số thuê bao 0986858092 (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Quang L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về