Bản án 51/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 51/2018/HS-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Xuân T - Sinh năm 1988

Trú tại: Khu A, thị trấn L, huyện H, tỉnh Nam Định

Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá: 12/12;

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam.

Con ông: Trần Văn T1 (đã chết) và bà Phạm Thị N - SN 1961

Vợ: Trần Thị Y, sinh năm 1988; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015

Tiền sự , tiền án : không; Tạm giữ, tạm giam : Không; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị H – Sinh năm 1956 (đã chết)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang.

* Người đại diện theo pháp luật của người bị hại:

- Ông Đỗ Đức B – Sinh năm 1954 (chồng)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang.

- Chị Đỗ Thị Bích H - Sinh năm 1976 (con)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang

- Chị Đỗ Thị H1 - Sinh năm 1978 (con)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang

- Chị Đỗ Huyền A - Sinh năm 1982 (con)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang

- Anh Đỗ Bình D - Sinh năm 1990 (con)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang

* Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện theo pháp luật;

- Ông Đỗ Đức B – Sinh năm 1954 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Khu Tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phạm Văn H – Sinh năm 1981 (có mặt)

Địa chỉ: Khu B thị trấn L , huyện H, Tỉnh Nam Định

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h ngày 11/6/2018 Trần Xuân T (có giấy phép lái xe hạng C) điều khiển xe ô tô BKS ..( xe của anh Phạm Văn H SN 1981 ở khu B, thi trấn L, huyện H, tỉnh Nam Định) chở lưới cước dùng để đánh cá từ huyện H, tỉnh Nam Định đi thành phố V, tỉnh Nghệ An giao hàng cho khách. Trên xe có anh Nguyễn Văn B, SN 1994 ở xóm M, xã T, huyện H, tỉnh Nam Định, là phụ xe nằm ở ghế phụ ngủ. Đến khoảng 22h cùng ngày bị cáo điều khiển xe ô tô đến Km 348+57 QL1A thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa. Đây là đoạn đường mở nơi giao nhau giữa hai chiều đường, có biển báo được phép quay đầu, biển báo dành cho người đi bộ, có vạch giảm tốc độ, mỗi chiều đường rộng 9m50. T điều khiển xe tốc độ khoảng 65km/h ở làn đường xe cơ giới giáp với làn đường xe thô sơ thuộc chiều đường Bắc- Nam thì phía trước chiều đi của T có bà Nguyễn Thị H (SN 1955 ở khu tập thể C, Phường L, TP G, tỉnh Bắc Giang) đi bộ ngang sang đường hướng từ Đông sang Tây đường QL 1A ở giữa làn đường xe cơ giới giáp với làn đường xe thô sơ. T không phát hiện thấy bà H nên không giảm tốc độ, do đó mặt trước Ba đờ xốc trước, mặt trước giàn thoáng đầu xe, mặt trước trán xe và mặt trước cần gạt nước bên trái đầu xe ô tô BKS .. đâm va với bên phải người bà Nguyễn Thị H làm bà H văng về phía trước ngã xuống đường. T vội đánh lái sang phải và đạp phanh để tránh bánh xe ô tô không đè lên người bà H và chạy lên khoảng 20m rồi dừng xe vào lề đường. Bà Nguyễn Thị H bị thương chết trên đường đi cấp cứu.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường mở nơi giao nhau giữa 2 chiều đường QL 1A rộng 27m50, có biển báo cấm đi ngược chiều, đường 1A có dải phân cách cứng phân chia cho 2 chiều đi riêng biệt, mỗi chiều đường rộng 9m50, có vạch sơn đứt quảng phân chia 2 làn xe cơ giới, có vạch sơn kẻ liền phân chia làn đường xe cơ giới và làn đường xe thô sơ, có vạch sơn dành cho người đi bộ qua đường QL1A; phía Bắc, phía Nam nơi đường giao nhau có vạch giảm tốc, có biển báo đường giao nhau.

Lấy phía Nam đất ở của nhà hàng N nằm phía Tây đường QL1A làm điểm mốc, lấy mép đường phía tây QL1A nơi xảy ra tai nạn làm điểm chuẩn. Tại hiện trường để lại các dấu vết như sau:

- 01 vết máu đã thẩm thấu mặt đường nhựa nằm trên phần đường xe cơ giới giáp với phần đường xe thô sơ phía Tây QL1A. Vết máu có KT 30x30 cm, tâm vết máu đến phía tây mép đường QL1A là 2m75 và đến đầu mút phía Nam đoạn đường mở nơi giao nhau giữa 2 chiều đường QL1A là 7m50 (về phía Bắc). Tâm vết máu đến phía Nam đất ở của nhà hàng N là 7m.

- Vết tỳ trượt màu đen (vết phanh kép) dạng lốp ô tô có KT 6m10 x 48cm, chiều hương từ Bắc đến chếch hướng Tây Nam, vết nằm trên phần đường xe cơ giới giáp với vạch sơn phân chia phần đường xe cơ giới và phần đường xe thô sơ phía tây QL1A. Điểm xuất phát vết cách mép đường phía tây QL1A làm 1m90, cuối vết cách mép đường phía Tây QL1A là 1m40. Điểm xuất phát vết phanh đến tâm vết máu là 24m70 (về phía Bắc QL1A).

Kết quả khám nghiệm phương tiện và giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh:

- Các vết tỳ trượt tại mặt trước Ba đờ xốc trước, mặt trước giàn thoáng đầu xe, mặt trước trán xe và mặt trước cần gạt nước bên trái đầu xe ô tô BKS …phù hợp do va chạm với bên phải nạn nhân Nguyễn Thị H tạo nên khi nạn nhân H đang trong tư thế đứng (hoặc đi).

- Vị trí va chạm giữa xe ô tô BKS ..với nạn nhân Nguyễn Thị H nằm trước vết máu (1) được thể hiện trong biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường, thuộc phần đường theo hướng từ tỉnh Thanh Hóa đi Nghệ An và ngay khu vực khoảng mở giữa hai phần đường QL1A.

Kết luận giám định pháp y tử thi: Tại bản kết luận giám định số 1176 ngày 27/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận bà Nguyễn Thị H bị các vết thương xây xước da, bầm tụ máu tại đầu, mặt, ngực, vai, tứ chi; gãy kín 1/3 dưới hai xương cẳng tay phải và hai xương cẳng tay trái; tụ máu tổ chức dưới da dầu vùng thái dương đỉnh phải, vùng chẩm và cơ thái dương phải; chảy máu lan tỏa màng mềm bán cầu đại não hai bên. Nguyên nhân chết: đa chấn thương.

Về dân sự: Theo báo cáo của gia đình bà Nguyễn Thị H: sau tai nạn Nguyễn Xuân T đã đến chia buồn với gia đình và đã bồi thường tiền mai táng, tiền thuê xe chở bà H về, tiền tổn thất tinh thần một lần cho gia đình bà H với tổng số tiền là 200.000.000đ. Gia đình bà H đã nhận đủ số tiền bồi thường, từ chối kê khai chi phí mai táng và không có yêu cầu đề nghị gì thêm về dân sự và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho Trần Xuân T.

Về vật chứng: Đối với xe ô tô BKS .., quá trình điều tra xác định là xe của anh Phạm Văn H. Anh H thuê bị cáo T lái xe chở hàng cho anh H (hợp đồng miệng). Quá trình điều tra các bên đã thỏa thuận giải quyết dân sự xong nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe ô tô trên và các giấy tờ liên quan đến xe ôt tô cho anh H.

Tại bản cáo trạng số 45/Ctr-VKS ngày 17/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Quảng Xương để xét xử bị cáo Trần Xuân T về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a khoản 1 điều 260 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên toà hôm nay:

- Bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hànhvi phạm tội của mình

- Kiểm sát viên tham gia phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1 điều 51; Khoản 2 điều 51; Điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 24 đến 30 tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan công an huyện Quảng Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Qua xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên toà hôm nay bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai của bị cáo với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, HĐXX thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22h ngày 11/6/2018 tại Km 348+57 QL1A thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa, Trần Xuân T (có giấy phép lái xe hạng C) điều khiển xe ô tô BKS … đi hướng Bắc- Nam. Khi đến km 348+57, đây là đoạn đường mở, là nơi giao nhau giữa hai chiều đường QL 1A rộng 27,5 m , có vạch sơn dành cho người đi bộ qua đường, có vạch giảm tốc tộ, có biển báo đường giao nhau nhưng bị cáo không chú ý quan sát, không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn), vi phạm khoản1 điều 5, thông tư  91/2015/TT-BGTVT nên đã đâm va vào bà Nguyễn Thị H (SN 1955 ở khu tập thể C, phường L, thành phố G, tỉnh Bắc Giang) khi bà H đang đi bộ sang đường, Hậu quả bà H tử vọng. Vì vậy hành vi của bị cáo phạm vào tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a khoản 1 điều 260 BLHS. Cáo trạng của VKSND huyện Quảng Xương đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất vụ án :

Hiện nay, tình trạng vi phạm Luật giao thông ngày càng gia tăng, nhiều vụ tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Nguyên nhân chủ yếu do sự thiếu ý thức của người điều khiển phương tiện khi tham gia giao thông. Bị cáo do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ nên đã đâm vào bà H khi bà H sang đường, hậu quả bà H tử vong. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của nhà nước về an toàn giao thông đường bộ, trật tự an toàn giao thông và tính mạng của người khác, nên cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung nhằm làm giảm tai nạn giao thông.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo : Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng mà được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, thành khẩn khai báo, đại diện của người bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bị cáo cóthời gian phục vụ trong quân đội tại đảo Trường Sa, vì  vậy cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS để giảm nhẹ cho bị cáo một phần, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật việt nam. Với nhiều tình tiết giảm nhẹ nêu trên, nhân thân bị cáo tốt chưa có tiền án, tiền sự, có nơi thường trú rõ ràng. HĐXX thấy không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội, cần áp dụng điều 65 BLHS cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi thường trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ để bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự : Bị cáo đã bồi thường cho người đại diện của bị hại. Người đại diện của người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm vì vậy HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 điều 260; Điểm b, s khoản 1 điều 51; Khoản 2 điều 51; Điều 65 BLHS Bộ luật Hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ "

* Xử phạt: Bị cáo Trần Xuân T 12 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện H, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách .

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Về trách nhiệm dân sự : Bị cáo đã bồi thường cho người đại diện của bị hại. Người đại diện của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

* Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Trần Xuân T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện của người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại trụ sở chính quyền địa phương.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7 và điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:51/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về