TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 511/2019/HS-PT NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; tiến hành mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 375/2019/TLPT-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 do có kháng cáo của các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1/Lương Vĩ B; tên gọi khác: Chảy; Giới tính: Nam; Sinh ngày 05/3/1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo:không; trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Thường trú: Khu phố A, phường Hiệp T, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh;Hiện đang cư trú: Khu phố A, phường Hiệp T, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Con ông Lương Kiến T và bà Đặng Thị B1; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 02 con (lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2009); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt từ ngày 05/3/2018 (Bị cáo có mặt).
2/Nguyễn Hoàng N; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10/7/1985 tại tỉnh Bến Tre; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: thợ cơ khí; Thường trú: Ấp Phước K, xã Phước Mỹ T, huyện Mỏ Cày B, tỉnh Bến Tre; Chỗ ở: Khu phố A, phường Hiệp T, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Con ông Nguyễn Văn N1 và bà Đào Thị M; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ và 02 con (lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt từ ngày 05/3/2018 (Bị cáo có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Lương Vĩ B: Ông Nguyễn Hồng L là Luật sư, thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng N: Ông Đoàn Trọng Nghĩa là Luật sư, thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);
- Bị cáo không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị:
Bị cáo Nguyễn Mạnh T1 (Bị cáo vắng mặt).
-Bị hại:Ông Phùng Minh T2, sinh năm 1981(tử vong);
Người đại diện hợp pháp củabị hại:
1/Bà Lê Thị Ngọc T3; sinh năm 1961 (vắng mặt);
2/Bà Nguyễn Thị Hồng L1; sinh năm 1992 (vắng mặt);
Cùng ngụ tại địa chỉ: Lê Văn K, khu phố B, phường Hiệp T, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 04/3/2018, Lương Vĩ B rủ Nguyễn Hoàng N đến quán cà phê “A Sửu” tại tổ 55, Khu phố A, phường Hiệp T, Quận Y, TP. Hồ Chí Minh do Đỗ Huỳnh Anh N2 (tên thường gọi là U) làm chủ, để uống cà phê, đồng thời B giúp trông coi quán. Tại đây, B và N gặp bạn tên Nguyễn Mạnh T1 đang ngồi uống nước một mình tại bàn cạnh bụi tre phía ngoài, bên trái quán (hướng từ cửa quán vào) nên ngồi chung. Khoảng 15 phút sau, Phùng Minh T2, Chu Đình V, Trần Văn M1 và Nguyễn Văn T4 (đã uống bia trước đó tại nhà của T2) đi trên hai xe mô tô đến, dừng xe phía bên phải, phía trước và cách cửa quán cà phê “A Sửu” (được làm bằng lưới B40, có khung kim loại) khoảng 5-6 mét, để tìm anh N2 rủ về nhà T2 uống bia. T2 đến trước cửa quán, V, M1, T4 đi theo phía sau, đứng cách T2 khoảng 2-3 mét. T2 hướng về phía bàn của B, N, T1 hỏi “Có Út chủ quán ở nhà không?”, B nói “Út đi Cần Thơ chưa về”, đồng thời B vừa nói, vừa chỉ tay về phía bên phải quán "Tụi bây chơi gì thì vào đó chơi". Sau đó, T2, V, M1, T4 và T1 cũng đi đến khu vực có khoảng 7-8 T2 niên đang nhìn màn hình tivi có hình ảnh hai con gà đang đá nhau. Trong lúc xem đá gà thì xảy ra mâu thuẫn giữa T4, T2 với nhóm T2 niên, T1 nói “Chắc tụi anh nhìn lầm người rồi không phải tụi em đâu” thì T2 nói “Tụi bây thích gồng với tao hả”; V sợ xảy ra đánh nhau nên T4, Việt kéo T2 ra ngoài, trở về khu vực trước quán (bút lục 311; 312-317; 322-325).
Lúc này, T2 nhìn thấy B đang cầm hung khí loại sắc (chiều dài khoảng 60 cm, lưỡi bằng kim loại, hình hơi cong dạng lưỡi liềm dài khoảng 25 cm, cán bằng gỗ dài khoảng 35 cm “cây rựa”) đang đi đến cửa quán. T2 hỏi “Tụi bây cầm rựa định làm cái gì tao?” rồi đi về phía B, vừa đi vừa lặp lại câu nói trên. B nói “Cầm rựa chặt tre chứ có làm gì đâu” và đi vào phía trong, cách cửa quán khoảng 01 mét thì bị T2 áp sát phía sau. B xoay người lại, cầm rựa bằng tay phải giơ lên “nhá” T2 và nói “Nãy giờ tao nhịn mày nhiều rồi nha”. T2 liền dùng tay phải đánh trúng vào vùng mặt trái của B một cái (bút lục 316; 365; 397). B dùng rựa chém vào vùng đùi trái của T2 một cái, chém vào vùng đầu mặt của T2 2-3 cái. B quăng cây rựa về phía sàn nước gần bụi tre, bên phải quán (hướng từ ngoài vào) rồi dùng tay đánh vào vùng đầu mặt của T2. N đang đứng phía ngoài quán, lấy một cây cào cỏ bằng kim loại dài 1,2 mét cạnh bụi tre, bên trái quán (hướng từ ngoài vào). N cầm cây cào cỏ bằng hai tay, chạy vào phía trong quán, đánh T2 hai cái theo phương ngang hướng từ phải qua trái, một cái trúng vùng thái dương bên trái, một cái trúng vùng vai trái của T2 (bút lục 360-365; 394-397).
T4, V nhìn thấy T2 bị đánh nên chạy vào can ngăn; V đến cửa quán thì bị B đẩy trở ra, còn T4 chạy đến chụp cây cào cỏ, giằng co với N (bút lục 397). Lúc này, T1 nghe tiếng đánh nhau nên chạy ra, Tâm nhìn thấy T1 chạy đến nên bỏ chạy ra ngoài đường hẻm. T1 thấy B đang giằng co đánh nhau với T2 nên lấy một cây quạt điện, loại quạt đứng, cao 98 cm, đánh vào vùng mặt của T2 hai cái dẫn đến cây quạt gãy làm hai phần (bút lục 331). T1 tiếp tục lấy một cây đèn điện, loại đèn để bàn của học sinh, ném trúng vào vùng bụng của T2, làm cây đèn gãy làm hai phần (bút lục 329). B, N, T1 tiếp tục dùng tay đánh vào vùng đầu, mặt của T2 khiến T2 ngã xuống, ngồi dựa vào cửa quán. Sau đó, B, N, T1 bỏ đi ra khỏi quán. T1 nhìn thấy V, M1 nên nhặt cây rựa cầm trên tay phải, V, M1 đi vào trong quán nên T1 dùng bề sống cây rựa chém 1 nhát vào vùng vai của V, 01 nhát vào vùng đầu (có đội nón bảo hiểm) của M1 nên M1, V dừng lại không chạy vào trong quán (bút lục 445).
Khoảng 2-3 phút sau, T2 đứng dậy, đi ra đứng trước cửa quán và nói “Tụi bây có ngon thì đánh cho tao tắt luôn đi”. Lúc này, N đang đứng cách T2 khoảng 02 mét, liền chạy đến dùng đầu gối chân phải “lên gối” vào vùng bụng của T2 01 cái, T2 gục xuống, nằm ngửa xuống đất. Sau đó, T2 đứng dậy và nói “Tụi bây có ngon đánh cho tao chết luôn đi, đừng để tao sống”. B đang đứng cách T2 khoảng 02 mét, tiến tới, dùng hai tay đấm 02 cái vào mặt T2. N đang đứng cạnh T2, dùng chân đá vào vùng mông của T2 01 cái làm T2 tiếp tục gục xuống, nằm ngửa xuống đất. B khom người xuống, dùng hai tay đấm 02 cái vào vùng bụng của T2. N dùng chân phải đá vào vùng hông trái của T2 01 cái, và vào vùng mông trái của T2 01 cái và T2 nằm im. Một lúc sau, T2 ngồi dậy và được V, M1 đưa đi về. Sau đó, T2 được đưa vào Bệnh viện Quân y 175 cấp cứu, đến ngày 06/3/2018 T2 tử vong (bút lục 319-321).
Ngày 05/3/2018, Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N và Nguyễn Mạnh T1 đến Công an phường Hiệp T, Quận Y đầu thú (bút lục 67-72).
Ngày 21/5/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố có Kết luận giám định pháp y tử thi số 331-18/KLGĐ-PY kết luận nguyên nhân tử vong của Phùng Minh T2:
“- Vùng đầu: Xây xát da và dập da đuôi cung mày phải. Xây xát da trán trái trên đuôi cung mày trái, mi trên mắt trái. Xây xát da và bầm tụ máu vành tai phải. Xây xát da và dập rách da đỉnh phải đã được khâu, kích thước 5,5cm x 4cm. Bên trong tụ máu dưới da vùng đỉnh phải. Tụ máu trong cơ thái dương trái. Xương hộp sọ, xương hàm mặt không tổn thương. Xuất huyết dưới màng cứng vùng đỉnh hai bên khoảng 30 ml máu sệt đặc. Xuất huyết rải rác quanh thân não. Xuất huyết nhẹ dưới màng nhện thùy đỉnh hai bên. Không thấy dấu hiệu tổn thương não.
- Vùng bụng: Xây xát da bụng phải dưới bờ sườn phải trên đường giữa đòn, kích thước 3cm x 0,5cm. Xây xát da và bầm tụ máu rải rác bờ sườn trái trên đường giữa đòn và vùng bụng hạ sườn trái, kích thước 10cm x 9cm. Xây xát da và bầm tụ máu ngực bụng trái trên đường nách giữa, kích thước 28cm x 7cm. Xây xát da và bầm tụ máu thắt lưng phải, kích thước 26cm x 13cm. Bên trong, ổ bụng có khoảng 2000 ml dịch máu loãng. Tụ máu trong cơ thành bụng trái. Lách, thận trái đã được cắt bỏ. Dập tụ máu ở đầu tụy đã được khâu. Dập gan thùy trái, ở mặt hoành và mặt dưới gan thùy trái có khoảng 5000 gam máu cục. Mạc nối lớn đóng khối với máu đông.
- Các tạng khác không tổn thương.
- Kết luận tổn thương vi thể: Viêm phổi cấp. Xuất huyết rải rác dưới màng nhện ở vùng đại não và thân não, hành não. Xuất huyết rải rác trong mô tiểu não thân và hành não. Hình ảnh xuất huyết do chấn thương ở mô cơ thành bụng trái, tụy. Viêm dạ dày mạn tính. Tình trạng rối loạn vi tuần hoàn.
Nguyên nhân chết: Phùng Minh T2 chết do sốc đa chấn thương – Chấn thương bụng kín và chấn thương sọ não trên tử thi nhiễm HIV” (bút lục: 93- 109).” Đối với hành vi của Nguyễn Mạnh T1 đánh vào đầu của ông Chu Đình V do ông V từ chối giám định thương tích và không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự với Nguyễn Mạnh T1 nên cáo trạng không truy tố.
Tại bản cáo trạng số 155/CT-VKS-P2 ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HS-ST ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:
- Tuyên bố các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 phạm tội “Giết người”.
1/- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt Lương Vĩ B 18 (mười tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018.
2/- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt Nguyễn Hoàng N 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018.
3/- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt Nguyễn Mạnh T1 12 (mười hai) năm tù,thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018
- Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo luật định.
* Đến ngày 10/6/2019 bị cáo Lương Vĩ B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
* Đến ngày 14/6/2019 bị cáo Nguyễn Hoàng N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Các luật sư bào chữa cho các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N lập luận cho rằng: Trong vụ án này người bị hại có lỗi, gây sự trước làm cho các bị cáo ức chế về tinh thần mới xảy ra xô xát, nên các bị cáo không phải chịu tình tiết định khung côn đồ. Đồng thời các bị cáo đầu thú, thật thà khai báo, bồi thường thiệt hại đầy đủ theo yêu cầu của gia đình bị hại và gia đình bị hại cũng có đơn bãi nại cho các bị cáo. Cho nên đề nghị chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N so với mức án mà bản án sơ thẩm đã tuyên.
Kiểm sát viên, đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích đánh giá chứng cứ cho rằng bản án sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 phạm tội “Giết người” theo tình tiếtđịnh khung tăng nặng có tính chất côn đồ được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Khi lượng hình bản án sơ thẩm đã có xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo được hưởng. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểmsát viên, người bào chữa và của các bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]- Trong quá trình điều tra, cũng như ở tại các phiên tòa sơ và phúc thẩm, các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như diễn biến nội dung, sự việc đã được tóm tắt.
[2]- Xét lời khai nhận tội trên của bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N hoàn toàn phù với lời khai của các nhân chứng, có mặt chứng kiến khi xô xát xảy ra, cũng như các tài liệu chứng cứ khác có lưu trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử phúc thẩm đủ căn cứ kết luận.
[2.1]- Giữa các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 với bị hại Phùng Minh T2 không hề có sự mâu thuẫn gì trước. Chỉ vì hai bên hiểu nhầm, nên phát sinh cự cải qua lại bằng lời nói. Nhưng với bản chất hung hăng, xem thường tính mạng sức khỏe của người khác, mong muốn giải quyết mâu thuẩn bằng bạo lực, nên bị cáo Lương Vĩ B vào nhà lấy hung khí (cây rựa) ra thách thức. Từ đó dẫn đến xô xát xảy ra, trong lúc xô xát bị cáo Lương Vĩ B sử dụng (cây rựa), Nguyễn Hoàng N sử dụng (cây cào cào), Nguyễn Mạnh T1 sử dụng (cây quạt máy) và cùng nhau đâm, chém vào người bị hại Phùng Minh T2, dẫn đến hậu quả bị hại Phùng Minh T2 tử vong do bị đa chấn thương vùng bụngkín và vùng sọ não; đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
[2.2]- Với hành vi hậu quả nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HS-ST ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 phạm tội “Giết người” theo tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và hậu quả các bị cáo gây ra.
[3]- Tuy nhiên khi lượng hình, trong vụ án này cần phải đánh giá một cách toàn diện khách quan, xem xét nguyên nhân nào dẫn đến các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1thực hiện hành vi phạm tội; Qua diễn biến sự việc nêu trên cho thấy chính bị hại Phùng Minh T2 là người kiếm chuyện, gây sự trước. Đồng thời cũng là người có hành động dùng vũ lực tấn công đánh bị cáo Lương Vĩ B trước. Từ nguyên nhân này, các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 sử dụng hung khí tấn công lại bị hại Phùng Minh T2 thì mới xảy ra hậu quả nêu trên. Như vậy trong vụ án này bị hại Phùng Minh T2 cũng có 01 phần lỗi.
Ngoài ra các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Mạnh T1 còn có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác như:Đầu thú, thật thà khai báo toàn bộ hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải, tích cực bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại số tiền 470.000.000 đồng và được đại diện người bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
[4]- Do các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N có nhiều tình tiết giảm nhẹ nêu trên; thiết nghĩ cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N giảm nhẹ thêm 01 phần hình phạt tù cho các bị cáo so với mức án mà bản án sơ thẩm đã tuyên, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật cho những ai thật sự biết ăn năn hối cải.
Riêng đối với hình phạt của bị cáo Nguyễn Mạnh T1, bản án sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo 12 năm tù. Đây là mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt, xét thấy là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần được giữ y án phần này.
[5]- Do kháng cáo được chấp nhận, nên các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6]- Các phần khác của quyết định Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HS-ST ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minhdo không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực, pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ Luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HS-ST ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần hình phạt của các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng N.
Tuyên bố: Các bị cáo Lương Vĩ B, Nguyễn Hoàng Nphạm tội “Giết người”.
1/- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt Lương Vĩ B 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018.
2/- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt Nguyễn Hoàng N 13 (mười ba) năm tù,thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018.
3/- Các phần khác của quyết định Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HS- ST ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh do không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực, pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm hình sự có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 511/2019/HS-PT ngày 10/09/2019 về tội giết người
Số hiệu: | 511/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về