Bản án 273/2019/HS-PT ngày 20/05/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 273/2019/HS-PT NGÀY 20/05/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 20 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 97/2019/TLPT-HS ngày 24 tháng 01 năm 2019 do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Lê Minh S và bà Doãn Thị M đối với bản án hình sự sơ thẩm số 58/2018/HSST ngày 26/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo bị kháng cáo: Phương T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2000 tại thành phố C; Nơi cư trú: Ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12.; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phương Vĩnh Tr và Vợ: Lâm Mỹ Th ; con: Chưa có tiền án: Không; tiền sự: 01 lần. Ngày 24 tháng 01 năm 2018, bị Công an xã T phạt hành chính 100.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự nơi công cộng” (đã nộp phạt xong). Đầu thú ngày 07/9/2018 và bị tạm giữ ngày 08/9/2018 đến ngày 17/9/2018 chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn N – Văn phòng luật sư A, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau. Có mặt.

- Người bị hại: Lê Minh H, sinh năm 1997 (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Ông Lê Minh S, sinh năm 1962 (Có mặt).

2. Bà Doãn Thị M, sinh năm 1967 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: ấp 3, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Phương Vĩnh Tr, sinh năm 1975 (Có mặt).

2/ Bà Lâm Mỹ Th, sinh năm 1975 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 07 tháng 9 năm 2018, tại quán cà phê H ở ấp C1, xã Đ, thành phố C, tỉnh Cà Mau có hai nhóm thanh niên ngồi uống cà phê, gồm:

Nm thứ nhất: Phương T, sinh ngày 09/9/2000; Trương Chí Th, sinh năm 1999; Nguyễn Khánh Ph, sinh năm 1997; Nguyễn Vũ C, sinh năm 2000 cùng ngụ ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Huỳnh Nhật Đ, sinh năm 2001, ngụ ấp 2, xã T, thành phố C và Trần Hoàng Đ1, sinh năm 1998, ngụ ấp L, xã Đ, huyện Đ1, tỉnh Bạc Liêu.

Nm thứ hai: Lê Minh H, sinh năm 1997; Trịnh Hoài Nh, sinh năm 1995; Lâm Hoàng Nhân A, sinh năm 1999; Lý Thanh M, sinh năm 1996;

Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1992; Phạm Văn T, sinh năm 2000 và Thái Hoàng H, sinh năm 2002. Tất cả đều ngụ ấp 3, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Trong lúc uống cà phê, nhóm của T cho rằng nhóm của H có hành vi sàm sỡ nhân viên của quán cà phê nên hai nhóm xảy ra cự cãi, H thách thức T đánh, đâm tay đôi.

Sau đó, nhóm T ra về trước. Khi về đến cây xăng B thuộc Ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau thì nhóm T ghé vào ngồi nói chuyện. Khoảng 30 phút sau, H và Nh chạy xe mô tô đến và hỏi Hồ Nguyên H1 - nhân viên bán xăng “Nhóm T có đây không”. T nghe ông H1 trả lời không có, H và Nh chạy xe đi về hướng Bạc Liêu. Khi H và Nh đi khỏi cây xăng thì T mượn xe mô tô của Ph chạy về nhà lấy một cây dao nhọn, cán màu vàng đen lưỡi bằng Inox dài 28cm, phần cán dao có kích thước 12,8cm x 3cm, lưỡi dao rộng nhất 5,6cm dắt vào lưng quần rồi chạy xe trở lại cây xăng Biên phòng để đánh nhau với nhóm của H. Khi T về nhà lấy dao thì T không nói cho ai biết.

Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, H, Nh, A, M, Kh, T1 chạy xe đến cây xăng Biên phòng thì gặp nhóm T. Lúc này, Kh đứng ra hòa giải nhưng H không đồng ý, tiếp tục chửi T rồi cùng Nh lên xe chạy đi (H điều khiển xe). Khi ra đến đường quốc lộ 1A (hướng Thành phố C – Bạc Liêu) thì Nh rút dây thắt lưng trong người ra rồi H dừng xe lại, tiếp tục rủ T đánh tay đôi. T chạy đến chỗ H rồi rút dao trong người ra, đâm H nhiều nhát. Trong đó có một nhát trúng vào vùng ngực trái làm H ngã gục xuống đường, sau đó tử vong.

Trong lúc T đâm H thì Nh có dùng dây thắt lưng đang cầm trên tay đánh trúng vào đầu của T nhưng không gây thương tích; Khánh Ph cầm đoạn sắt đánh trúng vào vai Nh nhưng không gây thương tích.

Đến khoảng 22 giờ 50 phút cùng ngày Phương T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố C đầu thú.

* Kết quả khám nghiệm tử thi Lê Minh H lúc 05 giờ 00 phút ngày 08/9/2018, tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Cà Mau, thể hiện như sau:

- Khám ngoài: Đầu – Mặt: Có 03 vết thương. Ngực – Bụng: Có 04 vết thương. Lưng – Mông: Có 02 vết thương. Tay - Chân: Có 05 vết thương.

- Mổ tử thi phát hiện: Bầm tụ máu khoảng liên sườn I - II cơ ngực trái; Đứt một phần bờ trước dưới xương đòn trái; Đứt sụn sườn số I bên trái; Khoang màng phổi trái chứa 1.250 ml máu loãng lẫn máu cục; Xẹp phổi trái. Đứt kiểu xuyên táo thùy đỉnh phổi trái kích thước: 3,2cm x 0,1cm; Khoang màng phổi phải ít dịch; phù phổi phải; Thủng đỉnh bao màng tim kích thước 3,2cm; Bao màng tim có chứa 50 ml máu loãng lẫn máu cục; Đứt thủng dọc tĩnh mạch phổi trái kích thước 03cm. Ngoài ra không phát hiện gì thêm.

* Tại bản Kết luận giám định Pháp y về tử thi số 10/TT ngày 13/9/2018, của Trung tâm pháp y tỉnh Cà Mau kết luận: Nguyên nhân Lê Minh H chết Sốc mất máu cấp do vết thương thấu ngực thủng đỉnh phổi trái + thủng tĩnh mạch phổi trái/ Đa vết thương.

* Tang vật thu giữ gồm:

- 01(một) điện thoại di động Oppo S7, màu đen, đã được niêm phong có chữ ký của bị cáo Phương T.

- 01 (một) cây dao cán nhựa màu vàng, đen, kích thước dao dài 28cm, phần cán dao có kích thước 12,8cm x 3cm, lưỡi dao rộng nhất 5,6cm.

- 02 (hai) chiếc dép nhựa quay kẹp màu trắng.

- 02 (hai) chiếc dép nhựa quay kẹp màu đen.

- 01 (một) cái quần sọt jean màu xanh, trên hai ống quần có dính nhiều vết loang màu nâu xẩm.

- 01 (một) cái áo màu đen, trắng (muối tiêu), áo thun ngắn tay, phía trong cổ áo có viền màu trắng có dòng chữ “Under armou”.

- 01 (một) áo thun sọc ca rô ngắn tay màu đen trắng, đã cắt thân trước bên trái, phía lưng áo trái phần vai có hai vết rách kích thước 2cm và 0,4cm.

- 01 (một) quần Jean dài màu đen, gối phải có nhiều vết rách.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm 58/2018/HSST ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 91; Điều 101; Điều 48; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 584, 585 Điều 591 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Phương T phạm tội “Giết người” Về trách nhiệm hình sự: Xử phạt bị cáo Phương T 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 08/9/2018.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại.

Ngày 07/01/2019 người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Lê Minh S và bà Doãn Thị M kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo và yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 50 tháng lương tối thiểu.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Lê Minh S và bà Doãn Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Phương T lập luận rằng: bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị hại có một phần lỗi nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Phương T, đã xét xử bị cáo tội giết người là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo và yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 50 tháng lương tối thiểu nhưng không đưa ra được tình tiết mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, người bào chữa, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]- Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại đúng trong thời hạn kháng cáo nên kháng cáo là hợp lệ được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]- Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phương T khai nhận hành vi phạm tội như tại phiên tòa sơ thẩm. Xét lời khai nhận tội của bị cáo T cơ bản phù hợp với lời khai của lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm hành vi phạm tội, vật chứng vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định đồng thời phù hợp với các chứng cứ được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Như vậy có đủ cơ sơ kết luận ngày ngày 07/9/2018 bị cáo Phương đã thực hiện hành vi dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm đâm nhiều nhát gây tử vong cho bị hại Lê Minh H.

Hành vi mà các bị cáo thực hiện là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến tính mạng con người là khách thể đặc biệt quan trọng được pháp luật hình sự ưu tiên bảo, mặt khác còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

Án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 điều 123 bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]- Xét kháng cáo tăng hình phạt của người đại diện hợp pháp của người bị hại thấy rằng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; đã tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả cho người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong vụ án này cũng có một phần lỗi của bị hại, mặt khác tại thời điểm phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi. Án sơ thẩm tuyên xử phạt bị cáo Phương T 14 (mười bốn) năm tù là tương xứng với tính chất, hành vi, hậu quả do bị cáo gây ra. Người đại diện hợp pháp cho bị hại kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo nhưng không đưa tình tiết nào khác so với án sơ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Phương T của người đại diện hợp pháp của bị hại.

Kết luận của đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]- Đối với kháng cáo yêu cầu kháng cáo đề nghị tăng bồi thường tổn thất tinh thần thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo và cha mẹ bị cáo là khó khăn, mặt khác trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội cũng có một phần lỗi của người bị hại nên chỉ buộc người đại diện hợp pháp của bị cáo bồi thường tiền tổn thất về tinh thần tương đương với 50 tháng lương cơ bản là đúng quy định tại Điều 591 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại không có căn cứ chấp nhận.

Kết luận của đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 58/2018/HSST ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phương T không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại ông Lê Minh S và bà Doãn Thị M. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2018/HSST ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1/- Tuyên bố: Bị cáo Phương T phạm tội “Giết người”.

2/- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 91; Điều 101; Điều 48; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 584, 585 Điều 591 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Xử phạt: Xử phạt bị cáo Phương T 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 08/9/2018.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm để đảm bảo thi hành án.

3/- Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 58/2018/HSST ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4/- Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phương T không phải chịu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

496
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 273/2019/HS-PT ngày 20/05/2019 về tội giết người

Số hiệu:273/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về