Bản án 506/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 506/2019/HS-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình thụ lý số 494/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 521/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lý A N - tên gọi khác: Không; sinh năm 1977 tại LC; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Bản P, xã N, huyện P, tỉnh LC; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Lý Chỉn P (đã chết) và con bà Tẩn Tà M (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 15/5/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Tẩn A L - tên gọi khác: Không; sinh năm 1984 tại LC; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Bản H, xã H, huyện P, tỉnh LC; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Tẩn A M1, sinh năm 1962 và con bà Vàng San M2, sinh năm 1962; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị M3, sinh năm 1980 và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại bản án số 74/2013/HSST ngày 03/6/2013 Tòa án nhân dân tỉnh LC xử phạt 03 năm cải tạo không giam giữ vể tội “Trộm cắp tài sản” (trừ thời gian tạm giữ, tạm giam là 03 tháng 24 ngày, quy đổi ra thời gian cải tạo không giam giữ là 342 ngày (11 tháng 12 ngày), còn phải chấp hành 02 năm 18 ngày cải tạo không giam giữ)

+ Tại bản án số 51/2014/HSST ngày 24/7/2014 Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh LC xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp bản án số 74/2013/HSST ngày 03/6/2013 là 34 tháng 20 ngày tù. Ra trại ngày 11/10/2016.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 15/5/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

3. Phàn A N1 - tên gọi khác: Không; sinh năm 1991 tại LC; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Bản S, xã H, huyện P, tỉnh LC; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Phàn Mìn X, sinh năm 1965 và con bà Lý Xa N, sinh năm 1967; Bị cáo có vợ Tẩn Xa G, sinh năm 1993 và có 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 15/5/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến:

1.Ông Đoàn Văn B, sinh năm 1962 – trú tại tổ X, phường Q, thành phố TH

2. Ông Ngô Văn N2, sinh năm 1967, trú tại tổ Y, phường Q, thành phố TH

(Đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ 30 phút ngày 15/5/2019, tổ công tác Công an phường Q, thành phố TH nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại nhà trọ Phong Nhã thuộc tổ Z của phường có 03 đối tượng có biểu hiện sử dụng ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính đối với nhà trọ Phong Nhã, phát hiện tại phòng 202 của nhà trọ có 03 đối tượng: Tẩn A L, Lý A N và Phàn A N1 . Quá trình kiểm tra, phát hiện tại nền đất cạnh giường ngủ trong nhà trọ có 02 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng, cả ba đối tượng L, N, N1 đều khai nhận đó là ma túy (Heroine) do L, N, N1 mua về để cùng nhau sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra không thu giữ gì khác.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng có khối lượng 0,324 gam và lấy toàn bộ số chất bột màu trắng trên cho vào phong bì niêm phong ký hiệu L để gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 802/KL-KTHS ngày 23/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu L gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng 0,324 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Tẩn A L, Lý A N và Phàn A N1 khai nhận: Khoảng 10 giơ 00 phút ngày 15/5/2019, L, N, N1 cùng ngồi uống nước ở quán nước cạnh chợ Đ thuộc phường Q, thành phố TH. Tại đây N rủ L và N1 mỗi người góp 100.000đ mua ma túy để cùng nhau sử dụng. L và N1 đồng ý. Do L và N1 chưa có tiền nên cả ba thỏa thuận N ứng tiền trước là 300.000đ để mua ma túy. N1 và L sẽ trả cho N sau. Sau đó, N đưa cho L 300.000đ để L đi mua ma túy, còn N và N1 đi đến khu nhà trọ phía sau Vincom TH đợi L. Tẩn A L cầm tiền rồi hỏi người phụ nữ bán nước (tên là T1, không rõ lai lịch địa chỉ) chỗ nào bán ma túy thì T1 gọi điện cho một người đàn ông không quen biết đến bán cho L 03 gói ma túy với giá 300.000đ. Mua xong ma túy, L mua kim tiêm, nước cất rồi đi đến chỗ N, N1 đợi. Sau đó L, N, N1 cùng nhau thuê phòng 202 của nhà trọ Phong Nhã thuộc tổ Z, phường Q. Tại phòng trọ, N1 đi vệ sinh, còn N và L ở ngoài đã cùng nhau sử dụng 01 gói ma túy vừa mua được bằng hình thức chích, 02 gói còn lại L vẫn để trên giường. Khi N1 đi ra thì L đã sử dụng xong, còn N vẫn đang sử dụng. L chỉ vào 01 gói ma túy và bảo N1 sử dụng, N1 đồng ý và chuẩn bị giấy bạc sử dụng bằng hình thức hít, nhưng chưa kịp sử dụng thì tổ công tác Công an phường Q, thành phố T H phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng cua vu an: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu L.

Bản Cáo trạng số 496/CT-VKSTPTN ngày 27 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố các bị cáo Lý A N, Tẩn A L và Phàn A N1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác đã thu thâp được có trong hồ sơ vụ án. Tẩn A L, Lý A N, Phàn A N1 đều khai nhận cả ba thống nhất không chia ma túy mua được riêng cho từng người mà để sử dụng chung, thực tế L và N đã sử dụng chung 01 gói ma túy. Có đủ cơ sở xác định số ma túy cơ quan điều tra thu giữ là của cả ba bị cáo L, N và N1.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Tẩn A L, Lý A N và Phàn A N1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Lý A N, Tẩn A L từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Phàn A N1 từ 18 đến 24 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu L Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo Lý A N là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã được thông báo, giải thích đầy đủ về trợ giúp pháp lý. Song bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo không yêu cầu trợ giúp pháp lý.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai nhận tội của các bị cáo, của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hi 11 giờ 30 phút ngày 15/5/2019, tại khu vực nhà trọ Phong Nhã thuộc tổ Z, phương Q, thành phố T H, Tẩn A L, Lý A N, Phàn A N1 có hành vi tàng trữ 0,324 gam Heroine mục đích để cùng nhau sử dụng chung thì bị tổ công tác của Công an phường Q, thành phố TH phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b c, Heroine..., có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Vin kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xét xử các bị cáo với mức án phù hợp, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Vụ án có tính chất đồng phạm, Lý A N tham gia với vai trò là người khởi xướng, rủ rê, Tẩn A L tham gia tích cực là người trực tiếp đi mua ma túy (Heroine), kim tiêm, nước cất để sử dụng. Hội đồng xét xử xem xét vai trò của từng bị cáo để có mức hình phạt tương xứng với hành vi của từng bị cáo.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo Lý A N, Tẩn A L, Phàn A N1 không có tiền án, tiền sự. Nhưng bị cáo Tẩn A L có nhân thân xấu đã hai lần bị Tòa án xét xử.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra các bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS.Tuy nhiên xác định các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu L được dán kín có 03 dấu đỏ của phòng KTHS – Công an tỉnh TH và chữ ký của Trần Việt Đ và Nguyễn Thành T2.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo Tẩn A L khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực Vincom TH và người phụ nữ tên Thảo là chủ quán nước đã gọi người đến bán ma túy cho Tẩn A L. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ những người này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Các bị cáo Lý A N, Tẩn A L, Phàn A N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Lý A N 24(Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2019 Xử phạt: Bị cáo Tẩn A L 24(Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2019.

Xử phạt: Bị cáo Phàn A N 21(Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ 01(một) bì niêm phong ký hiệu L được dán kín có 03 dấu đỏ của phòng KTHS – Công an tỉnh TH và chữ ký của Trần Việt Đ và Nguyễn Thành T.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 519 ngày 04/9/2019 giữa Công an TP. TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Tẩn A L, Lý A N và Phàn Văn N1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 506/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:506/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về