Bản án 50/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 239/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021, Quyết định Hoãn phiên tòa số: 12/2021/HSST-QĐ ngày 05 tháng 02 năm 2021 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 16/2021/HSST-QĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Nguyễn Hoàng Đ, sinh năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: xã Th, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Ph và bà Nguyễn Thu H, bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2020 đến nay. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Ngọc Lâm, Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi. (có mặt) Địa chỉ: Chi nhánh số 1 Văn phòng Luật sư Công Anh, Số 20A Phú Hòa, Phường 7, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị hại: Ông Phạm Trường T - sinh năm: 1995.

Nơi cư trú: ấp 5, xã Th, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Đăng Kh – sinh năm 1994.

Nơi thường trú: Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú: xã Th, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

2. Ông Nguyễn Nhựt N - sinh năm: 1995.

Nơi thường trú: xã Th, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt)

3. Ông Nguyễn Đức Đ1 – sinh năm 2001.

Nơi cư trú: xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

4. Ông Nguyễn Trí D – sinh năm 1993.

Nơi cư trú: xã H, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Nguyễn Hoàng Đ là chủ đại lý cà phê có thuê kho hàng tại Ấp 6, xã Th, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình kinh doanh, Đức thuê Phạm Trường T làm tài xế đi giao và lấy hàng, Nguyễn Trí D có nhiệm vụ thu tiền hàng. Khoảng 19 giờ 30 ngày 16/01/2020, Phạm Trường T điều khiển xe gắn máy đến kho hàng và lái xe ô tô tải đi quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh lấy hàng, có Nguyễn Đức Đ1 đi đến kho bốc xếp hàng phụ Tài. Trong khoảng thời gian Tài và Đông đi lấy hàng, Đức gọi điện cho Nguyễn Nhựt N đến kho để kiểm tra và phát hiện mất 03 thùng cà phê. Vũ Nguyễn Hoàng Đ cùng với Nguyễn Nhựt N và Nguyễn Đăng Kh mở camera quan sát trong kho xem lại diễn biến tại kho của ngày 16/01/2020 phát hiện Tài mang một thùng hàng bỏ lên xe ô tô chở đi.

Đến khoảng 21 giờ 40 cùng ngày, T lái xe chở Đ1 về đến kho, Đ cho hay kho bị mất 03 thùng cà phê và hỏi T: “có phải mày lấy hàng không?”, T trả lời: “tao không có lấy”. Sau đó, giữa T và Đ tiếp tục lớn tiếng qua lại với nhau nên Đ lấy xe nói đi ra ngoài mua nước uống, T cắm chìa khóa vào xe gắn máy hiệu Future F1 biển số 59Y1-911.79 của Tài để bên trong kho và đẩy ra gần đến cửa kho để đi về thì Đ1 nói T: “Đợi Đ về giải quyết như thế nào” nên T đồng ý và rút chìa khóa xe cầm trên tay, dựng xe cạnh xe nâng. Khoảng 15 phút sau, Đ về cùng với Huỳnh Ngọc Hoàng Gia và 03 người thanh niên. Do bực tức và nghĩ T cùng Nguyễn Trí D chiếm đoạt số tiền cà phê đã giao cho khách hàng và 03 thùng hàng bị mất trộm, nên Đ cùng với Huỳnh Ngọc Hoàng Gia dùng tay đánh và dùng chân đạp, đá vào người T. Sau khi đánh xong, Đ yêu cầu T để lại xe gắn máy hiệu Honda Future F1 biển số 59Y1- 911.79 cùng 01 giấy phép lái xe và cho T đi về. Sau đó, T đến Công an xã Th, huyện H trình báo vụ việc.

Sau khi Phạm Trường T đi về, Vũ Nguyễn Hoàng Đ yêu cầu Nguyễn Đức Đ1 điều khiển xe gắn máy hiệu Future F1 biển số 59Y1- 911.79 của Tài đến gửi tại bãi giữ xe Tòa nhà chung cư Tô Ký tại địa chỉ số 10A Tô Ký, Khu phố 6, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh và đưa thẻ giữ xe cùng chìa khóa xe cho Đ giữ.

Đến trưa ngày 18/01/2020, theo yêu cầu của Cảnh sát khu vực, Vũ Nguyễn Hoàng Đ mang xe máy của T đến Công an xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn trình báo và được Công an xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú lúc 12 giờ 20 phút ngày 18/01/2020 và Vũ Nguyễn Hoàng Đ bị tạm giữ, tạm giam cho đến nay.

Quá trình điều tra, Phạm Trường T trình bày như trên và xác định, sau khi đánh T, Đ ép buộc T ký giấy nợ số tiền là 25.000.000 đồng. Do sợ bị đánh tiếp nên T đã ký nhận và giao chìa khóa xe máy. Riêng vết thương bị đánh, T từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý hình sự đối với Đ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Trí D trình bày: Tiền giao hàng (cà phê) trong giờ hành chính ngày 16/01/2020 đã giao hết lại cho Đ. Đến khoảng 17 giờ ngày 16/01/2020, Đ yêu cầu giao thêm 13 thùng cà phê cho khách thì D, T đã mang đi giao. Trong đó, D đã lấy tiền của 11 thùng còn 02 thùng khách hàng ký ghi nợ (có giấy ghi nợ). Do hết giờ làm việc nên D đã giữ số tiền này để qua ngày sau đưa lại cho Đ. Hiện số tiền này D đã chuyển vào tài khoản của Đ tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, riêng giấy ghi nợ 02 thùng hàng D đã đưa lại cho Kh đi thu tiền.

Tiến hành đối chất giữa Đ với T, N, Kh, Đ1 thì Đ khai nhận chỉ dùng tay đánh T 03-04 cái, sau khi đánh xong Đ yêu cầu T đưa giấy phép lái xe và để lại xe gắn máy hiệu Future F1 biển số 59Y1- 911.79 cho đến khi làm rõ việc mất hàng thì trả lại cho T. Đ xác định không viết và ép T ký giấy nợ. Đồng thời, Đ không biết ai tên Gia và không có Gia cùng 03 người thanh niên khác tham gia đánh T. Đ thừa nhận T không nợ tiền Đ, do nghi ngờ T thông đồng với D trộm hàng nên Đ đánh T và sau đó giữ tài sản.

Theo Kết luận định giá số 25/KL-HĐĐGTS ngày 13/2/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn xác định xe gắn máy nhãn hiệu Future F1 mang biển số 59Y1 - 911.79 có giá 18.000.000 đồng.

Ngày 07/7/2020, Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh có kết luận giám định File ghi âm cuộc nói chuyện giữa bị hại Phạm Trường T và bị can Đ do T cung cấp, kết luận: không phát hiện thấy có dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong file ghi âm và tiếng nói trong file ghi âm này do Đ nói ra. Qua làm việc, Đ thừa nhận tất cả nội dung trong file ghi âm trên là do Đ nói ra và Đ có nói đến người thanh niên tên Gia nhiều lần yêu cầu Tài không được khai ra khi công an làm việc.

Tại Bản cáo trạng số: 150/CT-VKS-HS ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Vũ Nguyễn Hoàng Đ về tội “Cướp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn giữ quyền công tố căn cứ vào các lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa hôm nay của bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thay đổi nội dung truy tố đối với bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ. Kiểm sát viên kết luận bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự.

Luật sư bào chữa cho bị cáo xác định: Do nghi ngờ Phạm Trường T cùng chiếm đoạt 03 thùng cà phê bị mất vào ngày 16/01/2020 tại kho hàng, bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ yêu cầu ông Phạm Trường T để lại tài sản là xe gắn máy hiệu Future F1 biển số 59Y1- 911.79. Việc bị cáo giữ xe của ông Phạm Trường T để ngày hôm sau giải quyết không thể xem là động cơ cưỡng đoạt tài sản, cũng không đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” như nội dung cáo trạng truy tố. Do đó, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội và trả tự do tại tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa:

[2.1] Bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ khai nhận: Do nghi ngờ Phạm Trường T cùng Nguyễn Trí D chiếm đoạt 03 thùng cà phê bị mất vào ngày 16/01/2020 tại kho hàng, địa chỉ Ấp 6, xã Th, huyện H, nên bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ có hành vi dùng tay đánh và dùng chân đạp, đá vào người Phạm Trường T. Sau đó, giữa bị cáo và Phạm Trường T tiếp tục nói chuyện việc mất hàng tại kho nhưng Phạm Trường T không thừa nhận có lấy hàng. Từ đó, bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ yêu cầu Phạm Trường T để lại xe gắn máy hiệu Future F1 biển số 59Y1- 911.79 và bằng lái xe. Bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ xác định việc giữ tài sản của Phạm Trường T nhằm mục đích làm rõ việc kho hàng của bị cáo bị mất 03 thùng cà phê, bị cáo không cướp tài sản của Phạm Trường T như nội dung cáo trạng truy tố.

[2.2] Những người làm chứng Nguyễn Đăng Kh và Nguyễn Nhựt N cùng khai nhận: Do nghi ngờ Phạm Trường T cùng Nguyễn Trí D chiếm đoạt 03 thùng cà phê bị mất, bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ cùng với Huỳnh Ngọc Hoàng Gia dùng tay đánh và dùng chân đạp Phạm Trường T. Sau đó bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ yêu cầu Phạm Trường T để lại xe gắn máy đang đỗ trong kho và bằng lái xe. Bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ giữ tài sản của Phạm Trường T nhằm mục đích làm rõ việc kho hàng của bị cáo bị mất 03 thùng cà phê.

[3] Lời khai của bị cáo, những người làm chứng tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại và người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở chứng minh, do nghi ngờ ông Phạm Trường T cùng ông Nguyễn Trí D chiếm đoạt 03 thùng cà phê bị mất nên bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ cùng với Huỳnh Ngọc Hoàng Gia dùng tay đánh và dùng chân đạp, đá vào người ông Phạm Trường T. Sau đó, bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ và ông Phạm Trường T tiếp tục nói chuyện việc mất hàng tại kho và bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ đã buộc ông Phạm Trường T giao tài sản là xe gắn máy. Do bị uy hiếp và lo sợ nên ông Phạm Trường T đã giao xe máy hiệu Future F1 biển số 59Y1- 911.79 được định giá 18.000.000 đồng và bằng lái xe theo yêu cầu của Vũ Nguyễn Hoàng Đ. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, tại phần luận tội thay đổi nội dung truy tố đối với bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ, đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng với quy định tại Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

[5] Áp dụng điều luật viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật với lỗi cố ý trực tiếp, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Từ đó, Hội đồng xét xử cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét các bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại phiên tòa bị cáo ăn năn hối cải về hành vi đã thực hiện; bị cáo có ông ngoại là ông Nguyễn Hiền Lương, bà ngoại là bà Nguyễn Thị Tuyết, ông nội là ông Vũ Lộc, bà nội là bà Vũ Thị Thành có nhiều công lao trong chiến đấu chống Mỹ cứu nước được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương. Từ đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Mặt khác, thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2020 đến nay cũng tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu như bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

[7] Quan điểm luận tội đối với bị cáo của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tranh tụng tại phiên tòa, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ không có hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại là chưa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến của Luật sư đề nghị tuyên bố bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ không phạm tội.

[9] Đối với Nguyễn Đức Đ1 có hành vi điều khiển xe máy Future F1 biển số 59Y1- 911.79 từ kho hàng về chung cư Tô Ký theo yêu cầu của Vũ Nguyễn Hoàng Đ. Tuy nhiên, việc Vũ Nguyễn Hoàng Đ chiếm đoạt tài sản của Phạm Trường T không có bàn bạc hay hứa hẹn gì với Nguyễn Đức Đ1, nên Cơ quan điều tra xác định Nguyễn Đức Đ1 không phải là đồng phạm và không xử lý hình sự đối với Nguyễn Đức Đ1 là phù hợp.

[10] Đối với Huỳnh Ngọc Hoàng Gia, qua xác minh hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn đã truy tìm Huỳnh Ngọc Hoàng Gia, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[11] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án bao gồm 01 xe gắn máy hiệu Future F1, mang biển số 59Y1 - 911.79 và 01 giấy phép lái xe hạng C số 790199274992 mang tên Nguyễn Trường Tài đã được giao trả cho bị hại, nên không đặt ra xem xét;

[12] Về dân sự: Quá trình điều tra, ông Phạm Trường T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và gia đình bị cáo đã thanh toán tiền lương Vũ Nguyễn Hoàng Đ nợ và Tài không yêu cầu gì thêm, nên không đặt ra xem xét.

[13] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 136, Điều 319 và khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ 01 (một) năm, 02 (hai) tháng, 18 (mười tám) ngày tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 18 tháng 01 năm 2020, thời hạn phạt tù bằng thời gian bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ đã bị tạm giam.

Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác;

Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Vũ Nguyễn Hoàng Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:50/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về