Bản án 12/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn V V, sinh ngày 01/01/19xx tại H. Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện S, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ V hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị L (đã chết); có vợ là Lê Thị M, sinh năm 19xx và 02 con, lớn sinh năm 20xx, nhỏ sinh năm 20xx; tiền sự, tiền án: Không có; nhân thân: Bản án số 203/2013/HSST ngày 03/12/2013, Tòa án nhân dân huyện S, thành phố H xử phạt Nguyễn V V 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Bản án số 04/2018/HSST ngày 15/01/2018, Tòa án nhân dân quận N, thành phố H xử phạt Nguyễn V V 08 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đều đã được xóa án tích); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2021 đến ngày 10/01/2021 chuyển tạm giam đến nay, có mặt;

- Bị hại: Chị Đào Thị Th, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn K, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng ngày 24/12/2020, Nguyễn V V sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo có tên “Hoa nở về đêm” đăng ký bằng số điện thoại 0974.224.643, kết bạn làm quen với chị Đào Thị Th, qua tài khoản Zalo có tên “trungthanh”. Quá trình nhắn tin, nói chuyện giữa V và chị Th nảy sinh tình cảm nam nữ. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/12/2020, V đi xe ô tô khách từ H về thị trấn Tiên Lãng gặp chị Th. Khi V đến khu vực Bưu Điện huyện Tiên Lãng, chị Th dùng xe máy đón V rồi đến nhà nghỉ Như Quỳnh ở khu 4 thị trấn Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng thuê phòng nghỉ số 15 để tâm sự. Tại phòng nghỉ V dùng điện thoại của mình chụp ảnh V và chị Th.

Tối cùng ngày, chị Th nhắn tin cho V qua Zalo, muốn chấm dứt quan hệ tình cảm với V do lo sợ hành vi bị phát hiện. Lúc này, V nảy sinh ý định dùng những bức ảnh đã chụp ở nhà nghỉ uy hiếp, đe dọa buộc chị Th phải đưa cho V số tiền 10.000.000 đồng, nếu chị Th không đưa tiền thì V sẽ gửi những bức ảnh trên cho chồng chị Th và phát tán lên mạng Internet.

Sáng ngày 31/12/2020, V nhắn tin cho chị Th qua Zalo, yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản số 19033098143013 mang tên Nguyễn V V mở tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh S, thành phố H. Chị Th sợ V phát tán ảnh của mình trong nhà nghỉ với V nên đã đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh huyện Tiên Lãng chuyển số tiền 1.500.000 đồng vào tài khoản nêu trên. Số tiền còn lại chị Th hẹn sẽ giao trực tiếp cho V. Cùng ngày, V đã dùng thẻ ATM rút hết số tiền 1.500.000 đồng.

Chị Th đã gửi đơn trình báo vụ việc tới Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lãng kèm theo đơn là ảnh chân dung của Nguyễn V V và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy 7 đã sử dụng để liên lạc với V.

Căn cứ kết quả xác minh nguồn ảnh tại Công an xã B, huyện S, thành phố H. Ngày 31/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lãng đã ra lệnh giữ và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn V V, thu giữ 01 thẻ ATM ngân hàng Techcombank, 01 thẻ căn cước công dân đều mang tên Nguyễn V V và số tiền 1.400.000 đồng. Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành truy tìm chiếc điện thoại di động của V nhưng không có kết quả.

Tại Công văn số 09/2021/SSN/TCB ngày 03/02/2021 của Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh S, thành phố H, trả lời kết quả xác minh việc mở tài khoản và lịch sử giao dịch tài khoản của Nguyễn V V thể hiện như sau: Hiện nay khách hàng chỉ có 01 số tài khoản 19033098143013 tại ngân hàng và 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn V V. Sao kê giao dịch từ ngày 29/12/2020 đến ngày 31/12/2020 có giao dịch nhận tiền từ chị Đào Thị Th, số tiền 1.500.000 đồng vào ngày 31/12/2020, và hoạt động rút tiền cùng ngày.

Tại Công văn trả lời số 509/CVVTQĐ-TTKT ngày 28/01/2021 của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội về chi tiết cuộc gọi đi, đến, tin nhắn đi, tin nhắn đến, số imei của 02 số điện thoại 0974.224.643 và số điện thoại 0963.065.619, trong đó số điện thoại 0974.224.643 đăng ký tên chủ thuê bao Nguyễn V V có địa chỉ tại thôn T, xã B, huyện S, thành phố H.

Kết luận giám định về dữ liệu điện tử số 20/KLGĐ ngày 16/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng đối với điện thoại nhãn hiệu Sam sung Galaxy 7 của chị Th giao nộp xác định:“Tìm thấy 93 cuộc gọi, 01 cuộc hội thoại bằng ứng dụng Messenger, 01 cuộc hội thoại bằng ứng dụng Zalo, 101 hình ảnh nghi liên quan đến vụ việc trong thời gian từ ngày 29 đến ngày 31 tháng 12 năm 2020 được lưu trong máy… Tài khoản Zalo đăng nhập trong điện thoại gửi đi giám định có thông tin như sau: Tên Zalo: ‘trungthanh’, giới tính ‘Nữ’, ngày sinh 30/12/1977, số điện thoại 0963065619”.

Ngày 05/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lãng đã tiếp nhận dữ liệu camera tại nhà nghỉ Như Quỳnh ở khu 4 thị trấn Tiên Lãng do chị Hoàng Thị Đ là nhân viên nhà nghỉ Như Quỳnh giao nộp.

Kết luận giám định số 22/KLGĐ ngày 15/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng xác định: “23 tập tin video có phần mở rộng “MP4” với tổng dung lượng 1,28GB được lưu trong USB màu đỏ đen, nhãn hiệu Scan Disk 8 GB đã qua sử dụng không bị cắt ghép, sửa chữa. Trích xuất 12 ảnh nghi liên quan đến vụ việc được lập thành bản ảnh kèm theo”.

Tại Bản cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 16/4/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã truy tố Nguyễn V V về tội Cưỡng đoạt tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn V V đều khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung nêu trên. Ngoài ra, V còn khai số tiền 1.500.000 đồng được chị Th chuyển qua tài khoản, V rút và tiêu hết 100.000 đồng, số còn lại đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lãng, đối với chiếc điện thoại di động dùng liên lạc với chị Th, V đã làm rơi khi bị bắt giữ.

Tại cơ quan điều tra, chị Đào Thị Th khai: Chị Th và Nguyễn V V quen biết nhau qua mạng xã hội Zalo (V giới thiệu là Hùng ở H); quá trình nhắn tin hai người nảy sinh tình cảm. Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 29/12/2020 chị Th và V nhắn tin qua Zalo hẹn gặp nhau ở thị trấn Tiên Lãng. Khi V đi xe ô tô đến Bưu Điện Tiên Lãng thì chị Th dùng xe máy đón V; sau đó cả hai vào nhà nghỉ Như Quỳnh ở khu 4, thị trấn Tiên Lãng tâm sự với nhau. Đến chiều cùng ngày, chị Th nhắn tin cho V muốn chấm dứt quan hệ với V nhưng V chỉ đồng ý với điều kiện chị Th phải đưa cho V 10.000.000 đồng và hẹn sáng ngày 30/12/2020 phải chuyển qua tài khoản cho V. Do chưa có tiền nên chị Th chưa chuyển, V đã nhắn tin dọa sẽ chuyển ảnh chụp chị Th trong nhà nghỉ cho người thân của chị Th và đăng lên Internet. Do lo sợ nên sáng ngày 31/12/2020, chị Th đã đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh huyện Tiên Lãng chuyển vào tài khoản của V số tiền 1.500.000 đồng, số tiền còn lại chị Th hứa sẽ chuyển sau và yêu cầu V xóa ảnh, nhưng V không đồng ý. Vì vậy, chị Th đã gửi đơn trình báo vụ việc tới Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lãng kèm theo đơn là ảnh chân dung của Nguyễn V V và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy 7 đã sử dụng để liên lạc với V. Chị Th đã nhận lại số tiền 1.400.000 đồng bị V chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm.

Kiểm sát viên khẳng định: Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 16/4/2021, truy tố Nguyễn V V về tội Cưỡng đoạt tài sản là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 170; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản. Do bị cáo là lao động tự do, thu nhập thấp, không ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra để giải quyết. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), trả lại cho bị cáo 01 thẻ ATM và 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn V V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Lãng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng, Kiểm sát viên thu thập đã đầy đủ và theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Lãng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo đúng quy định của BLTTHS; bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3] Bị hại là chị Đào Thị Th đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt không rõ lý do. Tuy nhiên, chị Th đã có lời khai tại cơ quan điều tra, chị Th cũng không yêu cầu bị cáo bồi thường nên căn cứ khoản 1 Điều 292 BLTTHS, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Về tội danh và hình phạt: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn V V phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các kết luận giám định, vật chứng thu được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Nguyễn V V dọa sẽ phát tán ảnh chụp chị Đào Thị Th ở trong nhà nghỉ lên mạng Internet hoặc gửi cho người thân của chị Th, uy hiếp tinh thần nhằm buộc chị Th phải giao nộp số tiền 10.000.000 đồng cho V, đã đủ yếu tố cấu thành tội Cưỡng đoạt tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLHS.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm quyền sở hữu mà còn xâm phạm đến sức khỏe tinh thần của người khác, gây mất trật tự, trị an - xã hội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung.

[6] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Mặc dù, các tiền án của bị cáo đã được xóa án tích, lần xét xử này không bị coi là tái phạm, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào nhưng cần thấy rằng, bị cáo có nhân thân xấu, đã hai lần bị kết án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học để cải tạo thành người tốt mà còn tiếp tục phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[7] Căn cứ tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử cho rằng, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, nhân thân xấu nên cần phải áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời hạn nhất định và phải trên mức khởi điểm mà Kiểm sát viên đề nghị mới thỏa đáng.

[8] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 170 BLHS quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo mới chiếm đoạt được một phần tài sản của bị hại và đã thu hồi được; mặt khác bị cáo không có tài sản gì, bản thân là lao động tự do có thu nhập thấp, không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Chị Đào Thị Th đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lãng trả lại 1.400.000 đồng, là số tiền bị Nguyễn V V chiếm đoạt, đến nay chị Th không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra để giải quyết.

[10] Về vật chứng: Hiện nay, Cơ quan điều tra còn tạm giữ 01 thẻ ATM và 01 Căn cước công dân của Nguyễn V V. Xét thấy đây là các giấy tờ hợp pháp của bị cáo nên căn cứ khoản 2 Điều 47 BLHS, khoản 3 Điều 106 BLTTHS, trả lại cho bị cáo quản lý, sử dụng là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn V V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 170; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn V V 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 01/01/2021.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo Nguyễn V V 01 (Một) thẻ ATM và 01 (Một) Căn cước công dân mang tên Nguyễn V V. Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản thu giữ, đã được bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn V V phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, thông báo./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 12/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:12/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về