Bản án 64/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2021/TLST- HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Huỳnh Minh L, sinh năm 2001 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: tổ 17, khu phố C, Phường A, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh Hữu T, sinh năm 1979 và bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1971; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có; bị tạm giữ ngày 23-02-2021 chuyển giam ngày 26- 02-2021 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Em Nguyễn Trí N, sinh ngày 12-4-2006; trú tại: Khu phố E, Phường D, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người đại diện của bị hại: Anh Nguyễn Thế V, sinh năm 1983 và chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1984; cùng trú tại: khu phố E, Phường D, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh (là cha mẹ ruột của em N) vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: ông Lê Thanh Đ, sinh năm 1981; Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tây Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 01-2021, Huỳnh Minh L tạo tài khoản trên mạng xã hội Facebook có tên “Uyên Kim”, lấy hình đại diện là nữ nhằm mục đích kết bạn, nhắn tin, chọc ghẹo với những người nam trên mạng xã hội, trong đó L có kết bạn với tài khoản tên “Nguyễn Trí N” của em Nguyễn Trí N, sinh ngày 12- 4-2006, ngụ khu phố E, Phường D, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; L chủ động nhắn tin với em N, giới thiệu mình là nữ muốn kết bạn với N. Do thấy hình đại diện của tài khoản “Uyên Kim” là nữ nên em N đồng ý kết bạn.

Trong quá trình nhắn tin trò chuyện, L chủ động nhắn những nội dung khiêu dâm, đồi trụy, gửi những đoạn clip người nữ mặc đồ gợi cảm qua cho N và yêu cầu N tự quay một đoạn clip không mặc quần áo và thủ dâm gửi qua cho L; ban đầu N không đồng ý nhưng do L liên tục gửi những tin nhắn với nội dung khiêu dâm thì N đồng ý, tự quay đoạn clip theo yêu cầu của L. Sau khi có được đoạn clip của N không mặc quần áo và thủ dâm gửi qua cho L; L uy hiếp tinh thần buộc em N phải đưa tiền, nếu không đưa sẽ đăng đoạn clip này lên mạng xã hội, gửi cho nhà trường, bạn bè và gia đình của N xem; do N sợ gia đình, bạn bè biết sự việc nên năn nĩ đưa tiền để L không đăng; nhưng L liên tục dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần để N đưa tiền cho L; N đã đưa 04 lần với tổng số tiền là 14.400.000 đồng; cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: ngày 10-01-2021 tại cổng sau tòa nhà TTC (siêu thị A cũ) đường T, khu phố C, Phường B, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; N đưa cho L số tiền 300.000 đồng để L không đăng trên mạng và xóa đoạn clip; L lấy tiền của N tiêu xài cá nhân hết.

- Lần thứ hai: do bị chặn Facebook không nhắn được tin với N nên L dùng tài khoản khác tên “Linh Kim” tiếp tục nhắn tin uy hiếp tinh thần buộc N đưa tiền nên vào ngày 15-02-2021 tại khuôn viên Bệnh viện T thuộc khu phố C, Phường C, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; N đưa cho L số tiền 1.600.000 đồng và đưa tờ giấy với nội dung viết sẵn là cam kết nhận tiền và xóa clip; L lấy tên giả là Nguyễn Cao C ký tên vào giấy cam kết và đưa điện thoại cho N xóa đoạn clip.

- Lần thứ ba: do đoạn clip còn lưu lại trên tài khoản Facebook tên “Uyên Kim” nên L tiếp tục nhắn tin uy hiếp tinh thần buộc N phải đưa tiền. Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 17-02-2021 tại khuôn viên Bệnh viện T; N yêu cầu L tự viết giấy cam kết nhận tiền và xóa clip rồi sẽ đưa cho L 2.500.000 đồng; lúc này L tiếp tục lấy tên giả là Nguyễn Cao C tự viết vào giấy cam kết rồi nhận tiền của N 2.500.000 đồng, sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

- Lần thứ tư: L tiếp tục nhắn tin uy hiếp tinh thần buộc N phải đưa tiền. Vào khoảng 14 giờ ngày 23-02-2021, L điều khiển xe mô - tô biển số 70B1- 783.44 từ nhà đến khuôn viên Bệnh viện T gặp N để lấy số tiền 10.000.000 đồng; sau khi nhận tiền của N; L cất vào túi áo; đồng thời tự viết giấy cam kết với nội dung đã nhận tiền, xóa clip ký và ghi tên Nguyễn Cao C thì bị bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 405/KL-KTHS ngày 06-4-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: chữ viết trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu A01 đến A03) với chữ viết của Huỳnh Minh L trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M) là do cùng một người viết ra.

Tại Cáo trạng số: 50/CT-VKSTPTN ngày 26-4-2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh truy tố bị cáo Huỳnh Minh L về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điển c khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh giữ quyền công tố giữ N quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Minh L phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Minh L từ 02 đến 03 năm tù;

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh đã truy tố.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo không tranh luận.

Tại phiên tòa trợ giúp viên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trình bày: Nội dung vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh đã truy tố bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 170 của Bộ luật hình sự là có cơ sở đúng pháp luật. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; còn đối với trách nhiệm dân sự, sau khi xảy ra sự việc gia đình bị hại biết được gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Thống nhất với bản luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hột đồng xét xử xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Trong khoảng thời gian từ ngày 10 tháng 01 đến ngày 23 tháng 02 năm 2021, Huỳnh Minh L đã nhiều (04) lần thực hiện hành vi nhắn tin đe dọa, uy hiếp tin thần buộc em Nguyễn Trí N phải đưa tiền cho L 04 lần với tổng số tiền là 14.400.000 đồng, lần cuối cùng ngày 23-02-2021 khi L đang nhận số tiền 10.000.000 đồng của em N thì bị bắt quả tang. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án; có cơ sở kết luận bị cáo Huỳnh Minh L phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, số tiền chiếm đoạt của bị hại là 14.400.000 đồng; hành vi này đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên cần phải nghiêm trị.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét:

+ Về tình tiết tăng nặng: Phạm tội từ 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và trước phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình (mẹ) bị cáo đã khắc phục hậu quả, cụ thể là đã trả cho gia đình bị hại số tiền 4.400.000 đồng; đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; từ đó có cân nhắc giảm nhẹ cho bị cáo một phần mức án.

[5] Các biện pháp tư pháp: căn cứ vào Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự.

5.1. Ghi nhận gia đình bị hại ông Nguyễn Thế Vinh cha ruột của em Nguyễn Trí N đã nhận số tiền 14.400.000 đồng, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

5.2. Về vật chứng:

- Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tây Ninh đã trả lại xe mô tô hiệu Honda loại Vision màu đen đỏ biển số: 70B1-783.44 cho bà Huỳnh Thị M.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại hiệu Iphone 6 màu xám số Imei:356988063778787, số seri: C71NWKMUG5MC của bị cáo dùng vào việc phạm tội.

[6] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s, b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Minh L phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh L 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 23-02-2021.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự.

- Ghi nhận gia đình bị hại ông Nguyễn Thế Vinh cha ruột của em Nguyễn Trí N đã nhận số tiền 14.400.000 đồng, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

- Về vật chứng:

+ Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tây Ninh đã trả lại xe mô - tô hiệu Honda loại Vision màu đen đỏ biển số: 70B1-783.44 cho bà Huỳnh Thị M (theo biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 05-4-2021).

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại hiệu Iphone 6 màu xám số Imei:356988063778787, số seri: C71NWKMUG5MC (hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26-4-2021).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí sơ thẩm hình sự.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, báo cho các bên biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Riêng đối các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại UBND xã (phường) nơi cư trú.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về