Bản án 50/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2020/QĐXXST-HS ngày 18/9/2020, đối với bị cáo: Đậu Quyền Q, sinh ngày 15/10/1994, tại xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đậu Đình H và bà Trần Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; quá trình nhân thân: Ngày 25/01/2017 và ngày 05/6/2018, bị Công an huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tam giam từ ngày 08/6/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị T, sinh năm 1960; nơi cư trú: thôn Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

- Những người làm chứng:

+ Anh Lê Xuân T, sinh năm 1989; nơi cư trú: Xóm 6, xã T, huyện L, thành phố Hà Tĩnh. Vắng mặt.

+ Anh Phan Văn C, sinh năm 1998; nơi cư trú: thôn M, xã M, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ 20 phút ngày 08/6/2020, sau khi uống thuốc cai nghiện Methadone ở Trung tâm điều trị cai nghiện tại Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Đậu Quyền Q đã nhờ một nam thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ mua cho Q 600.000 đồng ma túy loại Heroine, nam thanh niên này đồng ý. Khoảng 20 phút sau thì nam thanh niên này quay lại và đưa cho Q 01 bọc giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất ma túy Heroine. Q đựng gói ma túy vào trong vỏ bao thuốc lá hiệu Fasol sau đó đi bộ đến quầy thuốc tây bên đường mua một ống kim tiêm và một lọ nước cất rồi đi đến đoạn đường vắng và lấy một ít ma túy ra sử dụng. Số ma túy còn lại, Q cất giấu vào bao thuốc lá hiệu Fasol rồi bỏ vào túi quần. Sau đó, Q bắt xe Bus biển kiểm soát 73B - 010.88 đi về nhà. Khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc tổ dân phố Minh Lợi, phường Quảng Thọ, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình thì bị tổ công tác của Đồn Biên phòng Cửa khẩu Cảng Gianh kiểm tra, phát hiện và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình bắt quả tang, thu giữ trong người Q 01 gói giấy bạc màu trong suốt bên trong có chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy); 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Fasol; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng bạc có số IMEL 3569520632914998, đã qua sử dụng, bên trong có sim điện thoại số 0332.145.117 và 470.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Có hai tờ mệnh giá 200.000đồng, một tờ mệnh giá 50.000đồng, hai tờ mệnh giá 10.000đồng). Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn xác định 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 và số tiền 470.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội, nên đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Trần Thị T và bị cáo Q. Số ma túy còn lại sau khi giám định chuyển cơ quan Thi hành án dân sự để xử lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận giám định số 929/GĐ - PC 09 ngày 09/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,332g. Xác định Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 09, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ về việc “Quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất”.

Nhng người làm chứng là anh Lê Xuân T và anh Phan Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Những người này đã có lời khai tại Cơ quan điều tra nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.

Tại bản Cáo trạng số 53/CT - VKSTXBĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố bị cáo Đậu Quyền Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Bản cáo trạng, đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Đậu Quyền Q từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên miễn trách nhiệm hình phạt bổ sung; về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là 0,248g Heroine sau khi đã trích gửi đi giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Fasol.

Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và nhất trí với toàn bộ nội dung Bản cáo trạng và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố đối với bị cáo nên không tranh luận gì.

Trong vụ án này, có đối tượng nam thanh niên mua và giao ma túy cho Q. Quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý. Cơ qua điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý khi có kết quả.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thự hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận là người đã nghiện ma túy từ trước, đang trong thời gian uống thuốc cai nghiện ở Trung tâm điều trị cai nghiện tại Thành phố Đồng Hới. Sau khi uống thuốc cai nghiên tại trung tâm ra, khoảng 07 giờ 20 phút ngày 08/6/2020 bị cáo đã nhờ một nam thanh niên mua giúp 600.000 đồng ma túy, loại Heroine để sử dụng. Sau khi có ma túy bị cáo đã sử dụng một ít, số còn lại bị cáo cất giấu vào bao thuốc lá hiệu Fasol, rồi bỏ vào túi quần. Sau đó bắt xe Bus về nhà, khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc tổ dân phố Minh Lợi, phường Quảng Thọ, thị xã Ba Đồn thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giử trong người bị cáo 01 gói giấy bạc màu trong suốt, bên trong có chứa 0,332g ma túy, loại Heroine. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm và hiện trường nơi xảy ra vụ án, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án và được tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo Đậu Quyền Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, đúng như tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thấy: Bị cáo là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nên nhận thức và biết được ma túy Heroine là loại độc dược gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng được Nhà nước độc quyền quản lý để nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe của người dân và ngăn ngừa các tội phạm về ma túy, cho nên mọi hành vi cất giữ ma túy trái với quy định của pháp luật đều bị pháp luật nghiêm cấm và bị coi là tội phạm, nhưng do coi thường, bất chấp pháp luật và đạo lý, có lối sống sa đọa, sử dụng ma tuý nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, nhằm thỏa mản nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Ngoài ra còn trực tiếp đe doạ nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của bản thân, gây thiệt hại về kinh tế cho gia đình, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự công cộng và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử nghĩ cần có một hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để nhằm đấu tranh, ngăn chặn triệt để tệ nạn ma tuý trên địa bàn.

[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi sai trái của mình; bị cáo có Bố là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba, hiện là thương binh 4/4 nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; về nhân thân: bị cáo có nhân xấu, vào các năm 2017 và 2018 đã bị Công an huyện Quảng Trạch xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

[5] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội thấy: bị cáo là người có nhân thân xấu, là người bị lệ thuộc ma túy, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tự cải tạo, giáo dục bản thân mà còn cố ý tàng trữ ma túy để sử dụng, thể hiện ý thức coi thường và bất chấp pháp luật, nên khó cải tạo, giáo dục. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, nhằm trừng trị bị cáo, để bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người sử dụng ma túy, lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên cần chấp nhận ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên để miễn chấp hành hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Xét 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 và số tiền 470.000 đồng đã thu giữ, không liên quan đến hành vi phạm tội. Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa không ai có ý kiến, yêu cầu gì nên không xem xét.

Đi với 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Fasol không có giá trị sử dụng; số ma tuý sau khi giám định còn lại được thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Liên quan trong vụ án có đối tượng nam thanh niên đã mua ma túy cho bị cáo Q. Tuy nhiên, quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn không xác định được lai lịch, địa chỉ nên chưa có căn cứ xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn sẽ tiếp tục điều tra, xác minh để xử lý sau.

[9] Về án phí: Xử buộc bị cáo Đậu Quyền Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đậu Quyền Q phạm tội “Tàng trử trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đậu Quyền Q 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 08/6/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Đậu Quyền Q với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/9/2020) để đảm bảo thi hành án, theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đậu Quyền Q.

4. Về xử lý vật chứng: Xử tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Fasol và 01 phong bì thư của Phòng KTHS Công an tỉnh Quảng Bình, số: 929/GĐ - PC09, bên ngoài ghi “Mẫu ký hiệu A”, bên trong chứa 0,248g (Không phẩy hai trăm bốn mươi tám gam) chất ma túy Heroine sau giám định, kèm theo vỏ bao gói, đã được niêm phong bằng chữ ký của những người tham gia niêm phong và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình (Các vật chứng có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Ba Đồn và Chi cục Thi hành án thị xã Ba Đồn vào ngày 16/9/2020).

5. Về án phí: Xử buộc bị cáo Đậu Quyền Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về