Bản án 50/2020/HS-ST ngày 08/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG – TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 08/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2020. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2020/HSST ngày 17/6/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXX - HS ngày 25/6/2020 đối với :

Bị cáo:  Nguyễn Công Th, tên gọi khác: Không; sinh ngày 03/11/1991.

Nơi sinh và cư trú: Thôn N, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Không xác định; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị M. Vợ, con: Chưa có Tiền án: Ngày 15/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện ĐH xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án hình sự sơ thẩm số76/2018/HSST, Th chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 13/10/2019.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/3/2020 đến ngày 04/3/2020 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện ĐH.

( Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa)

Người chứng kiến :

1.Ông Phạm Hữu T, sinh năm 1959 Địa chỉ: Thôn N, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB

2. Ông Phạm Bá D, sinh năm 1965 Địa chỉ: Thôn Tr, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB (Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến vụ án tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 31/3/2020, tại trục đường thôn N, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB, Công an huyện ĐH phối hợp với Công an xã ĐP bắt quả tang Nguyễn Công Th, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại túi quần bên phải đang mặc của Th 01 gói nhỏ gói bằng túi nilon màu đen, kích thước (1x2) cm, mở ra lượt tiếp theo gói bằng giấy trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục.

Quá trình điều tra Nguyễn Công Th khai nhận: Th là đối tượng sử dụng ma túy, loại Heroin. Khoảng 07 giờ ngày 31/3/2020, Th đi bộ từ nhà ở thôn N, xã ĐP lên trục đường xã rồi đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông đi đường không rõ tên, địa chỉ. Khi đến ngã ba Đọ thuộc địa phận xã ĐS, huyện ĐH, Th xuống xe và tiếp tục bắt xe buýt đến ngã tư VH thuộc xã AV, huyện QP, tỉnh TB, mục đích để mua ma túy về sử dụng. Do đã có lần mua ma túy tại đây nên Th biết có người đàn ông khoảng 40 tuổi, Th không rõ tên và địa chỉ của người bán ma túy nên khi đến nơi Th tìm gặp người này và nói “bán cho 100.000 đồng, loại Hêrôin”, người này đồng ý, Th lấy 100.000 đồng đưa cho người này, người này nhận tiền và lấy trong người ra 01 gói nhỏ gói bằng túi nilon màu đen. Th cầm gói ma túy bỏ vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ sang đường bắt xe buýt về nhà để sử dụng. Khi Th đi bộ về đến thôn N, xã ĐP thì bị lực lượng Công an huyện ĐH phối hợp với Công an xã ĐP phát hiện bắt quả tang. Cơ quan Công an đã mời người chứng kiến là ông Phạm Hữu T, và ông Phạm Bá D chứng kiến, kiểm tra người, thu giữ vật chứng là gói ma túy Th vừa mua, sau đó đưa Th đến Ủy ban nhân dân xã ĐP lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Th đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐH làm việc.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐH đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Công Th nhưng không thu giữ gì.

Tại bản Kết luận giám định số 115/KLGĐ-PC09 ngày 01/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TB kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1443gam (không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi ba gam).

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo; Cáo trạng số 51/CT- VKSĐH ngày 15/6/2020 đã truy tố bị cáo Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH giữ quyền công tố tại phiên tòa phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đó đề nghị HĐXX kết tội bị cáo Th theo toàn bộ cáo trạng đã truy tố, đồng thời áp dụng Điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Th phạm tội:“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm 09 tháng – 02 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo do gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo đồng thời đề nghị HĐXX xử lý vật chứng.

Tại phiên tòa bị cáo Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 31/3/2020, tại trục đường thôn N, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB; Nguyễn Công Th có hành vi tàng trữ trái phép 0,1433 gam ma túy loại Heroin với mục đích để sử dụng bị Công an huyện ĐH phối hợp với Công an xã ĐP, huyện ĐH bắt quả tang.

Bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng pháp luật vì vậy không trình bày lời bào chữa, cũng không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, điều luật áp dụng, mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị.

Kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng: Do nghiện ma túy nên bị cáo đã vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn hối hận về việc làm của mình, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo được sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1] Về hành vi quyết định tố tụng:

Các tài liệu chứng cứ do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó là các tài liệu hợp pháp chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Căn cứ vào các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐH, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với cáo trạng số 51/CT - VKSĐH ngày15/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH đã truy tố.

Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an huyện ĐH lập 10 giờ 20 phút ngày 31/3/2020 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB; Bản kết luận giám định số 115/KLGĐ-PC54 ngày 01/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TB, lời khai của người chứng kiến là ông Phạm Hữu T, ông Phạm Bá D và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 31/3/2020, tại trục đường thôn N, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB, Nguyễn Công Th có hành vi tàng trữ 0,1433 gam ma túy, loại Hêrôin với mục đích để sử dụng bị Cơ quan Công an huyện ĐH phối hợp với Công an xã ĐP bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249.Tàng trữ trái phép chất ma túy 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

....

c. Heroin, cocain, methamphetamineAmphetamine, MDMA hoặc XLR -11cos khối lượng từ 0,1gam đến 05 gam;

.....

[3] Về tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Bị cáo đã bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy đã biết tác hại của ma túy, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là bất hợp pháp nhưng khi vừa thi hành xong bản án bị cáo lại tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy, việc đưa vụ án ra xét xử và áp dụng mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[ 4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có 01 tiền án về tội ma túy chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự

[ 5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, lao động tự do không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện hộ cận nghèo. Do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại Heroinethu giữ của Th là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo có đơn xin miễn án phí, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo do vậy cần miễn án phí cho bị cáo.

[8]Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định Về nguồn gốc ma túy: Th khai mua của người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên tuổi địa chỉ và không nhớ rõ đặc điểm ở khu vực ngã tư VH, xã AV, huyện QP, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

Về nguồn gốc số tiền 100.000 đồng Th khai dùng để mua ma túy là số tiền do Th lao động mà có.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2.Về hình phạt và điều luật áp dụng:

Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51,điểm h khoản 1 điều 52, Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công Th 02(hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 31/3/2020.

3.Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 0,1267 gam (Không phẩy một nghìn hai trăm sáu mươi bảy gam)ma túy loại Heroineđược niêm phong, trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TB hoàn trả mẫu vật giám định.

Các đồ vật trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện ĐH và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐH ngày 15/6/2020.

4.Về án phí và quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Công Th.

Bị cáocó quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án ngày 08/7/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 50/2020/HS-ST ngày 08/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về