Bản án 13/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 13/2017/HSST NGÀY 22/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/11/2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện S. Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Thanh Hóa mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2017/HSST ngày 09/10/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2017/HSST - QĐ ngày 09/11/2017 đối với bị cáo: 

Trịnh Huy H - sinh năm 1979. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 66 Phố T, thị trấn S, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Trịnh Huy Đ và bà Lê Thị P; có vợ là Hoàng Thị V và 02 con, lớn sinh năm 2009 và nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/7/2017 đến ngày 31/7/2017 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trịnh Huy H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 07 giờ 15 phút ngày 28 tháng 7 năm 2017, Trịnh Huy H đi từ nhà đến Trung tâm y tế huyện S để uống thuốc Methadone. Sau khi uống thuốc xong H đi ra hiệu thuốc tân dược nhà chị Lê Thị B ở khu phố S, thị trấn T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa để mua xi lanh, nước cất để sử dụng ma túy. Khi đang hỏi mua thì tổ công tác Công an huyện S cùng Công an thị trấn T đến kiểm tra, H thấy tổ công tác nên đã ném gói ma túy đang cầm ở trên tay trái xuống dưới đất. Tổ công tác đã bắt quả tang H và thu giữ gói ma túy mà H vừa vứt xuống đất.

Tại bản kết luận giám định số 1755/MT-PC54 ngày 29/7/2017 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong kí hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,216g (Không phẩy hai một sáu gam) loại: Heroine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S, Trịnh Huy H khai nhận gói ma túy trên là H nhờ Nguyễn Tất Q - sinh năm 1976 ở Thôn 2, xã T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa mua hộ vào sáng ngày 28/7/2017 với số tiền là: 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng), mục đích để sử dụng cho bản thân. Quá trình điều tra Nguyễn Tất Q không thừa nhận hành vi bán ma túy cho Trịnh Huy H. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S không đủ cơ sở để xử lý Q. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S tiếp tục điều tra xác minh làm rõ nguồn gốc số ma túy nêu trên, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 12/CTr - KSĐT - MT ngày 06/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo Trịnh Huy H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của BLHS.

Để giải quyết hiệu quả và đúng pháp luật các vụ án ma túy, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm nguy hiểm này, không bỏ lọt tội phạm, tránh oan sai. Ngày 18/10/2017, Tòa án nhân dân huyện S đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 03/2017/HSST - QĐ, trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự

Công an tỉnh Thanh Hóa thực hiện giám định hàm lượng chất ma túy trong gói chất bột màu trắng ngà thu giữ của bị cáo Trịnh Huy H có trọng lượng 0,216 g ( Không phẩy hai một sáu gam) loại: Hêrôin ( Sau giám định lần 1).

Tại bản kết luận giám định số 2226/MT- PC54 ngày 29/10/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng vụ cục trong phong bì niêm phong gửi giám định có hàm lượng Heroine là 53,87% (Năm ba phẩy tám bảy phần trăm). Như vậy gói chất bột màu trắng ngà thu giữ của bị cáo Trịnh Huy H có khối lượng là: 53,87 % x 0, 216gam = 0,116 gam Heroine.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của BLHS; Nghị quyết số 41/2017 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, xử phạt bị cáo Trịnh Huy H từ 18 đến 24 tháng tù.

* Về tang vật của vụ án: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,216g (Không phẩy hai một sáu gam) loại: Heroine.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở chứng minh: Khoảng 7 giờ 15 phút ngày 28/7/2017 tại khu vực phố S, thị trấn T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa, Trịnh Huy H có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy có trọng lượng 0,216g loại Heroine. Hàm lượng Heroine có trong 0,216gam là 53,87%. Như vậy khối lượng Heroine là 0,116 gam.

Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Struy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của BLHS là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất của vụ án: Tội phạm về ma túy là rất nguy hiểm. Ma túy gây hại đến sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, phá vỡ hạnh phúc gia đình. Ngoài ra ma túy còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác và gây lan truyền căn bệnh HIV/AIDS. Mặc dù bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp luật, bị cáo đã tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an chung. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào nhân thân và tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi xem xét hình phạt đối với bị cáo cũng cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo.

Thực hiện các quy định có lợi cho bị cáo theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định trách nhiệm hình sự nhẹ hơn khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo.

Vật chứng:

- 01 phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành ký hiệu M1 bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà có hàm lượng 53,87% Hêrôin, trọng lượng sau giám định là 0,152 gam là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Huy H phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng: khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Khoản 1; điểm a, đ khoản 2 Điều 76; Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án; Mục 1, Phần I Danh mục án phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Huy H 18 ( Mười tám ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 28/7/2017.

Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số ma túy sau giám định được niêm phong trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Lưu Bình Nguyên, Đào Thị Thu Thủy. (Số ma túy trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Stheo biên bản giao nhận vật chứng và phiếu nhập kho ngày 07/11/2017).

Án phí: Bị cáo Trịnh Huy H phải nộp 200.000đ án phí HSST

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bỉm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về