Bản án 50/2020/HS-ST ngày 08/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 08/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 7 năm 2020 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2020/TLST-HS, ngày 18 tháng 6 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

Nông Văn H, sinh ngày 01/8/1995 tại tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Xóm N, xã L, huyện B, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Thế S, sinh năm 1957 và bà Nông Thị T, sinh năm 1956; tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 16/2018/HSST, ngày 25/9/2018, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; có mặt.

Nông Văn T, sinh ngày 08/3/1990 tại tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Xóm N, xã L, huyện B, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Thế S, sinh năm 1957 và bà Nông Thị T, sinh năm 1956 (bị cáo là anh trai của Nông Văn H); tiền án, tiền sự: Không; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nông Văn L, sinh năm 1976; có mặt.

+ Anh Nông Vĩnh L, sinh năm 2002; có mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Anh Lưu Đình H, sinh năm 1977; địa chỉ: Số 17A/23 khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

+ Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1966; vắng mặt.

+ Bà Lê Thị B, sinh năm 1968; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Khóm 6, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Người làm chứng: Anh Nông Văn L, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn 4, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 03/3/2020, tại thôn 3, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Công an huyện E phát hiện và bắt quả tang Nông Văn H điều khiển xe mô tô Yamaha – Sirius, biển số 84 chở theo Nông Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Thu giữ 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất rắn màu trắng và 01 xe mô tô Yamaha – Sirius, biển số 84. H và T khai nhận chất màu trắng thu giữ nói trên là ma túy.

Công an huyện E đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo quy định.

Nông Văn H và Nông Văn T khai nhận: Vào khoảng 15 giờ ngày 03/3/2020, H và T đang ở cùng nhau tại thôn B, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk thì H rủ T góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng chung thì T đồng ý. T đưa cho H số tiền 200.000 đồng, H bỏ ra số tiền 1.800.000 đồng. Sau đó, H cầm số tiền 2.000.000 đồng và điều khiển xe mô tô Yamaha – Sirius, biển số 84 chở T đi sang thôn 3, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk để mua ma túy. Tại đây, H và T đã gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 2.000.000 đồng tiền ma túy thì người đàn ông này đồng ý và đưa lại cho H, T 01 gói giấy bạc màu trắng chứa ma túy. Khi vừa mua ma túy xong, H điều khiển xe mô tô chở T cầm theo ma túy định đi về lại huyện E thì bị Công an huyện Ea phát hiện, bắt quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 185/GĐMT-PC09 ngày 09/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,2330 gam, loại Heroine.

Đi với Nông Văn L có hành vi cho Nông V, Nông Văn T mượn xe mô tô 84. Tuy nhiên, ông L không biết H, T sử dụng xe mô tô vào việc phạm tội nên không đề cập xem xét, giải quyết.

Các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định.

Tại Bản cáo trạng số 52/CT-VKS, ngày 17/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo để xét xử đối với các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo giữ nguyên quan điểm truy tố sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nông Văn H từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nông Văn T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 03/3/2020.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy 0,1888 gam Heroine còn lại sau giám định, vì đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha – Sirius, biển số 84 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo tạm giữ khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của Nông Vĩnh L mua cho ông Nông Văn L sử dụng do đó cần trả lại cho ông Nông Vĩnh L là chủ sở hữu.

Các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 03/3/2020 tại thôn 3, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T có hành vi tàng trữ 0,2330 gam Heroine thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hi đồng xét xử nhận thấy, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, thế nhưng do ý thức coi thường pháp luật, nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận. Vì vậy, buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại điều luật trên quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamie, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Xét thấy, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy. Mặc dù các cơ quan chức năng đã có những biện pháp tuyên truyền cũng như xử phạt nghiêm khắc đối với những đối tượng vi phạm nhưng các loại tội phạm về ma túy không giảm mà vẫn có chiều hướng gia tăng tại địa phương. Mặt khác, bị cáo H là người có nhân thân xấu đã bị xử phạt hành chính về hành vi “Gây mất trật tự tại nơi công cộng” theo quyết định số 47/QĐ-XPVPHC, ngày 29/3/2018 của Công an huyện B, tỉnh Cao Bằng; Tại bản án hình sự số 16/2018/HSST, ngày 25/9/2018, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích bị cáo H không ăn năn hối cải mà tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều tham gia thực hiện tội phạm với vai trò thực hành. Vì vậy, cần phân tích đánh giá cụ thể hành vi của từng bị cáo tham gia vào việc phạm tội để việc quyết định hình phạt được chính xác.

Đi với bị cáo H là người khởi xướng việc phạm tội, trực tiếp tham gia vào việc phạm tội; còn đối với bị cáo T, khi được H rủ thì Thuận đồng ý, tích cực tham gia vào việc phạm tội, nên cần áp dụng đối với bị cáo H mức hình phạt cao hơn bị cáo T. Cần áp dụng một hình phạt đủ nghiêm đối với các bị cáo để trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục các bị cáo. Ngoài ra, còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh các bị cáo khó khăn. Như vậy, bị cáo được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Đi với người đàn ông đã bán ma túy cho Nông Văn H và Nông Văn T, không xác định được nhân thân lai lịch, nên không có căn cứ để xử lý.

[3] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu, tiêu hủy 0,1888 gam Heroine còn lại sau giám định. Cần trả lại chiếc xe mô tô hiệu Yamaha – Sirius, biển số 84 xác định đây là tài sản của ông Nông Văn L.

[4] Về án phí hình sự: Bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố các bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nông Văn H 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 04/3/2020.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nông Văn T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 04/3/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 0,1888 gam Heroine còn lại sau giám định. Trả lại chiếc xe mô tô hiệu Yamaha – Sirius, biển số 84 cho ông Nông Văn L là chủ sở hữu. (Đặc điểm vật chứng được lưu tại hồ sơ vụ án).

4. Về án phí hình sự: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nông Văn H, Nông Văn T là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Nông Văn Hòa, Nông Văn Thuận.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, các bị cáo; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HS-ST ngày 08/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về