Bản án 50/2018/HSST ngày 26/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 50/2018/HSST NGÀY 26/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 41/2018/HSST ngày 15/6/2018, đối với bị cáo:

* Họ và tên: Lê Chí C (tên gọi khác C Inox), sinh năm 1988; nơi cư trú khóm H, Phường H, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con của ông Lê Văn N, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; anh, chị, em ruột: 01 người (sinh năm 1983); bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: tiền án: Không; nhân thân: Năm 2011, bị Ủy ban nhân dân thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định đi cai nghiện bắt buộc thời gian 24 tháng; năm 2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 47/2014/HSST, ngày 11/9/2014, chấp hành xong vào ngày 24/4/2015. Bị cáo đang tại ngoại, bị cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

* Người làm chứng: Chị Đỗ Kim U, sinh năm 1968; địa chỉ đường T, khóm L, Phường M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Chí C là đối tượng nghiện ma tuý từ năm 2010. Vào khoảng 08 giờ ngày 12/3/2018, C đi xe buýt từ thành phố S, tỉnh Đồng Tháp đến Đường B, Phường M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long để tìm mua ma túy sử dụng. Bị cáo đi bộ đến khu vực cầu K thuộc Phường M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long gặp một người phụ nữ tên B (không biết họ và địa chỉ) hỏi mua ma túy với giá 280.000đ, B đưa cho C 04 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chất bột màu trắng. Khi nhận ma túy xong, C cầm ma túy trên tay đi bộ về đến khu vực tổ 15, Đường B, khóm L, Phường M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long thì gặp lực lượng Công an thành phố V, tỉnh Vĩnh Long đang tuần tra, do sợ bị phát hiện nên C đã bỏ ma túy vừa mua được xuống đất nhưng bị lực lược Công an phát hiện và thu giữ toàn bộ 04 đoạn ống nhựa có chứa chất bột màu trắng; tiếp tục kiểm tra đã thu giữ của C số tiền 500.000đ.

Theo kết luận giám định số: 119/KLGĐ-PC54, ngày 14/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long đã kết luận: Số bột màu trắng chứa trong 04 đoạn ống nhựa màu trắng là chất ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,1021gam.

Đối với người phụ nữ bán ma túy tên B, do không xác định được họ, địa chỉ cụ thể nên không làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

Tại cáo trạng số: 42/CT-VKSND-TPVL, ngày 14/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã truy tố bị cáo Lê Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Bị cáo Lê Chí C thừa nhận các lời khai trong quá trình điều tra là do bị cáo tự khai và khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã nêu, thống nhất kết luận giám định; thống nhất quan điểm luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo đã thấy được lỗi của mình, hứa không tái phạm và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm và khẳng định nội dung cáo trạng truy tố bị cáo Lê Chí C là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo C mức án từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong sau giám định và hoàn trả lại cho bị cáo số tiền 500.000đ, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời trình bày và khai nhận tội của bị cáo Lê Chí C tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, người làm chứng, vật chứng, kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, vào khoảng 08 giờ ngày 12/3/2018, bị cáo C đã có hành vi đi từ thành phố S, tỉnh Đồng Tháp đến Vĩnh Long bằng xe buýt để mua ma túy của người phụ nữ tên B, mục đích là để sử dụng; sau khi nhận được ma túy đựng trong 04 ống nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất bột màu trắng thì bị cáo đi về, đến khu vực tổ 15, Đường B, khóm L, thuộc Phường M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long thì bị lực lượng Công an thành phố V, tỉnh Vĩnh Long bắt quả tang. Theo kết luận giám định thì chất bột màu trắng bên trong 04 ống nhựa đã thu giữ của bị cáo C là chất ma túy loại Heroin, có khối lượng bằng 0.1021gam. Do đó, hành vi của bị cáo C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 mà cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã đề nghị truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Chí C có tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây mất ổn định trong xã hội, gián tiếp làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; đã nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, mong muốn có được ma túy để sử dụng cho bản thân; mặt khác, xét về nhân thân, bị cáo đã có 01 tiền sự vào ngày 24/8/2011 về việc “Đưa đối tượng vào Cơ sở chữa bệnh”, vì nhiều lần có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và có 01 tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, mặc dù đã được xóa án tích nhưng qua đó bị cáo không thấy ăn năn, hối cải mà lại tiếp tục cố ý phạm tội mới. Điều đó nói lên sự xem thường pháp luật của bị cáo, do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, tương xứng hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, thấy được hành vi sai trái của mình mà tỏ ra ăn năn hối cải. Xét thấy, có đủ cơ sở cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định cho bị cáo học tập, cải tạo để sửa chữa trở thành người có ích cho xã hội sau này.

[5] Xử lý vật chứng: Một gói niêm phong sau giám định là chất độc hại, nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu để tiêu hủy. Đối với số tiền 500.000đ là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên hoàn trả lại cho bị cáo, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị lớn, mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân, nên không cần thiết phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Lê Chí C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Chí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Chí C 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu để tiêu hủy 01 (Một) gói niêm phong sau giám định.

- Hoàn trả cho bị cáo Lê Chí C số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng), nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

(theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/6/2018 và biên lai thu tiền số N0 003694, ngày 18/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Vĩnh Long).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Chí C phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HSST ngày 26/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về