Bản án 50/2018/HNGĐ-ST ngày 16/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 50/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử công khai vụ án thụ lý số 327/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2018/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Giang Thị T; Sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp B, xã S, huyện T, tỉnh Trà Vinh (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Kim Đ; Sinh năm 1993. Địa chỉ: ấp A, xã Th, huyện T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/7/2018 và bản tự khai ngày 16/8/2018 nguyên đơn chị T có ý kiến: Do chị và anh Đ quen biết nhau trước nên chị và anh Đ tự nguyên đến với nhau được gia đình hai bên tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th vào 06/5/2014, sau khi cưới vợ chồng về sống bên mẹ chồng, tại ấp Ch A, xã Th, thời gian đầu vợ chồng sống chung rất hạnh phúc, thời gian sau anh Đ không lo cho gia đình, đi làm kiếm được tiền thì uống rượu về nhà vô cớ kiếm chuyện với chị cho đến tháng 7 năm 2017 chị không thể chịu đựng nửa nên ẩm con về cha mẹ ruột và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay, không bên nao tạo điều kiện hàn gắn lại quá trình chung sống vợ chồng có với nhau một người con tên Kim Thuý A; sinh ngày 13/12/2015, tài sản chung, nợ chung không có. Nay chị nhận thấy không còn tình cảm với anh Đ nửa, sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu: Về hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Đ; Về con chung Kim Thuý A; SN 13/12/2015 chị yêu cầu nhận nuôi con, về cấp dưỡng nuôi con chị tự nguyện rút lại, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung-nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Kim Đ vắng mặt nên không có lời khai. Nhưng trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, ngày 05/9/2018 Thẩm phán có xác minh ông Kim Sa Q; Sinh năm 1975 là cha ruột của anh Kim Đ, được ông Sa Q cho biết sau khi nhận được thông báo thụ lý vụ án của Toà án, Ông có điện thoại cho anh Kim Đ về để giải quyết việc gia đình nhưng anh Đ đang làm thuê ở Thành phố Hồ Chí Minh nên không về và anh cũng có ý kiến là đồng ý ly hôn với chị Giang Thị T, về phần con chung, chị T nuôi thì anh đồng ý để chị T nhưng anh không đồng ý cấp dưỡng, nếu chị T không có khả năng nuôi thì anh đồng ý nhận nuôi con, tài sản chung, nợ chung không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Riêng đối với bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là không tuân thủ theo quy định của pháp luật tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự; Về việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39, Điều147, Điều 227, Điều 238 và các Điều 244, 271, 273, 277 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luaät hoân nhaân gia ñình naêm 2014. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm ,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về hôn nhân: Cho chị Giang Thị T được ly hôn với anh Kim Đ. Về con chung: Kim Thuý A; sinh ngày 13/12/2015 giao cho chị T nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chị T tự nguyện rút lại yêu cầu là phù hợp theo quy định của pháp luật nên không xem xét; tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, miễn cho chị Giang Thị T vì chị là người dân tộc sống xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà sơ thẩm và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Xét về việc thụ lý và quá trình giải quyết của Tòa án, vụ án được thụ lý và giải quyết đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án, xácđịnh tư cách đương sự, xác minh thu thập chứng cứ và thời hạn chuẩn bị xét xửđược quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 97, 191 và Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về sự vắng mặt của nguyên đơn và bị đơn, trước khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã có thông báo về việc thụ lý vụ án, về kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự và triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm vào ngày 28/9/2018 và ngày 16/10/2018. Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo Điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cá nhân. Đối với nguyên đơn thì có mặt tham gia kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Riêng bị đơn thì vắng mặt và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Do đó căn cứ vào quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, có cơ sở xét xử vắng mặt chị Giang Thị T và anh Kim Đ.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Giang Thị T về hôn nhân. Qua tài liệu chứng cứ cùng với lời khai của đương sự đã cho thấy hôn nhân của chị Giang Thị T với anh Kim Đ là hợp pháp, thể hiện qua giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số I/2014, đăng ký ngày 06/05/2014 tại Ủy ban nhân dân xã Th. Theo chị T trình bày sau khi kết hôn chị về sống bên chồng, , thời gian đầu vợ chồng sống rất hạnh phúc, thời gian này thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do anh Đ không lo làm ăn, thường hay uống rượu về vô cớ kiếm chuyện với chị, đến tháng 7 năm

2017 chị không chịu đựng được nửa nên về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng ly thân cho đến nay, không có bên nào tạo điều kiện hàn gắn lại, nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân nửa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Đ. Hội đồng xét xử xét thấy từ ngày chị T yêu cầu ly hôn, anh Đ không phản đối, không yêu cầu đoàn tụ. Từ đó căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình và theo đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Giang Thị T được ly hôn với anh Kim Đ.

[4] Về con chung: Kim Thuý A; sinh ngày 13/12/2015 giao cho chị T nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chị T tự nguyện rút lại yêu cầu là phù hợp theo quy định của pháp luật nên không xem xét

[5] Về tài sản chung và nợ chung, chị Giang Thị T khai không có, anh Kim Đ cũng không có văn bản phản đối, nên không xem xét.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: miễn cho chị Giang Thị T theo quy định của pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 238 và các Điều 244, 271, 273, 277, 278, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56; 57; 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội, q uy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Giang Thị T.

1. Về hôn nhân: Cho chị Giang Thị T được ly hôn với anh Kim Đ.

2. Về con chung: Kim Thuý A; sinh ngày 13/12/2015 giao cho chị T được quyền nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con, chị T tự nguyện rút lại yêu cầu nên không xem xét.

Bên không không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được chung sống với bên trực tiếp nuôi dưỡng. Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng sau khi ly hôn.

3.Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí cho chị Giang Thị T vì chị là người dân tộc sống ở xã đặc biệt khó vùng bãi ngang ven biển.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Giang Thị T và anh Kim Đ vắng mặt tạiphiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đi ều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HNGĐ-ST ngày 16/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:50/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về