Bản án 49/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 49/2019/HSST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lý Văn N- sinh năm 1999 tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Nơi ĐKHKTT: Thôn V, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lý Văn Đ- sinh năm 1954 và bà: Lý Thị N (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/02/2019 và bỏ trốn đến ngày 24/10/2019 bị bắt tạm giam đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04/11/2018, Tẩn A T sinh năm 1999, trú tại thôn M, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai và Lý Văn N sinh năm 1999, trú tại thôn V, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai cùng nhau bắt xe khách từ thành phố Lào Cai sang huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu để làm thuê. Đến huyện Tân Uyên khoảng 19 giờ cùng ngày, T và N đến lán của ông Mai Văn B sinh năm 1957, trú tại thôn Đ, xã L, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đang tạm trú tại bản Tạng Đán, xã Thân Thuộc, huyện Tân Uyên để xin làm thuê (khai thác gỗ thông) anh B đồng ý. Sáng ngày 05/11/2018, T, N và ông B lên đồi thông của xã Thân Thuộc, huyện Tân Uyên để khai thác gỗ đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì nghỉ về lán ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, do T không có giầy đi nên T bàn với N mượn xe mô tô của ông Mai Văn B nhãn hiệu Honda, loại xe RSX, biển kiểm soát, 21E1-268.15, màu sơn trắng xám để đi mua giầy, ông B đồng ý. Trên đường đi, do sợ bị lực lượng Cảnh sát giao thông kiểm tra nên N dừng lại mở cốp xe để xem có giấy tờ xe không, khi mở cốp xe ra thì thấy bên trong cốp xe có 01 chiếc ví da nam màu đen bên trong có giấy phép lái xe, chứng minh thư, đăng ký xe, bảo hiểm xe đều mang tên Mai Văn B. Lúc này, Toản nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mang đi bán lấy tiền chia nhau tiêu sài cá nhân, N đồng ý. Sau đó, N tiếp tục điều khiển xe theo hướng từ huyện Tân Uyên đi thành phố Lào Cai, khi đến thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa, N dừng xe để đổ xăng và tìm nơi bán xe nhưng do không có giấy tờ tùy thân nên các chủ cửa hàng ở đây không mua. Do không bán được xe, T điều khiển xe chở N đi lên bản Vược, xã Bản Vược, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai thì T dừng lại và cùng N vào khu vui chơi giải trí bắn cá, bi a “Đại Phát 68 số 2” tại bản Vược do Hà Văn T sinh năm 1976, trú tại thôn Do Nghĩa, xã Nghĩa An, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương làm chủ để chơi trò chơi bắn cá. Khi vào quán, T và N có khoảng 100.000 đồng, sau khi chơi hết số tiền trên thì T và N bàn nhau cầm cố chiếc xe trên cùng đăng ký xe cho anh T lấy 6.000.000 đồng để chơi điện tử, T đồng ý. Có tiền T và N chia nhau mỗi người cầm 3.000.000 đồng chơi bắn cá tiếp và thua hết số tiền cầm cố chiếc xe nên T và N bàn nhau bán chiếc xe trên cho T với giá 12.000.000 đồng nhưng T chỉ mua với giá 10.200.000 đồng. Sau khi bàn bạc thống nhất, T viết giấy tờ mua bán xe rồi T đưa cho số tiền 4.200.000 đồng cộng với số tiền mà trước đó T và N cầm cố chiếc xe trên cùng đăng ký xe cho anh T lấy 6.000.000 đồng để chơi điện tử, T cầm tiền đưa lại cho N 2.100.000 đồng. Sau khi lấy tiền T, N bắt xe về cầu Cốc Lếu thuộc phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai. Tại đây, N lấy chiếc ví của ông B ra cầm giấy tờ tùy thân của ông B ném xuống sông, còn chiếc ví N cũng đưa cho T ném xuống sông, số tiền còn lại T, N đã tiêu sài cá nhân hết.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra bị can đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐGTS ngày 24/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Uyên kết luận: 01 chiếc mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe RSX, biển kiểm soát, 21E1-268.15 có trị giá là 12.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKS-TU ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố Lý Văn N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Tại phiên Tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Lý Văn N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lý Văn N từ 12 đến 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm Dân sự: Đã được giải quyết bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật nên không đề cập giải quyết.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội, bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và không tranh luận gì. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 05/11/2018 tại bản Tạng Đán, xã Thân Thuộc, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, Tẩn A T và Lý Văn N mượn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe RSX, biển kiểm soát 21E-268.15 của ông Mai Văn B đi mua giày. Trên đường đi T và N kiểm tra trong cốp thấy xe có đầy đủ giấy tờ nên đã nảy sinh ý định mang đi bán lấy tiền chia nhau. T và N điều khiển xe từ thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên về đến bản Vược, xã Bản Vược, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai bán cho Hà Văn T với số tiền 10.200.000đ rồi mang đi tham gia trò chơi bắn cá và chia nhau tiêu sài hết. Hành vi phạm tội của Lý Văn N là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng tới trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Lý Văn N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[3] Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo, tuy các bị cáo Lý Văn N và Tẩn A T có vai trò đồng phạm như nhau nhưng đối với Tẩn A T đã bị xét xử còn Lý Văn N khi được Cơ quan điều tra cho tại ngoại đã bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử nên cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ chấp hành pháp luật của bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật nên không đề cập giải quyết.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Đối với Tẩn A T đã được xét xử bằng một bản án số 26/2019/HSST ngày 02/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu và đã có hiệu lực pháp luật nên không đề cập giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lý Văn N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”

Xử phạt bị cáo Lý Văn N 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2019.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.

- Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày 28/11/2019 lên Tòa án cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:49/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về