Bản án 49/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường UBND xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hải Đ, sinh năm 1970 tại tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T1, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Lê Thị Ph; có vợ là Nguyễn Thị L; có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 168/2009/HSST ngày 24/8/2009, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt Nguyễn Hải Đ 27 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" (bị cáo chấp hành xong bản án ngày 13/5/2011).

Bị tạm giữ từ ngày 28/5/2019, sau chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1983;

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1959.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyn Hải Đ là người nghiện ma túy nên khoảng 18 giờ ngày 28/5/2019, Đ Nguyễn Thị Liên) từ ngã ba thị trấn T1, huyện T1, tỉnh Hải Dương đến khu vực Cống Dọng, xã Đại Đồng, huyện T1 để mua ma túy về sử dụng. Trên Đ đi, Đ dùng điện thoại Nokia 105 màu đen lắp sim số 0365.203.073 gọi vào số điện thoại 0968.288.103 cho người thanh niên tên Đạt (do Đ khai) quê ở xã T, huyện T1 hẹn gặp ở quán bia khu vực Cống Dọng, xã Đại Đồng để mua ma túy. Khi đến quán đã hẹn, Đ gặp và mua của Đạt một túi nilon ma túy tổng hợp (ma túy đá) với giá 280.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ cất giấu vào túi quần phía sau bên trái rồi đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Đ đang đi trên Đ 391, trước cửa quán Karaoke Vyka thuộc địa phận thôn Ô Mễ, xã Hưng Đạo, huyện T1 thì bị tổ công tác thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần của Đ một túi nilon kích thước (1,5x1)cm, bên trong chứa các hạt tinh thể dạng cục màu trắng, 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, lắp sim số 0365.203.073, 01 xe máy Honda Wave S biển số 34P7-1896.

Ti bản kết luận giám định số 218/KLGĐ-PC09 ngày 31/5/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Hải Đ, gửi đến giám định khối lượng là 0,301g (không phẩy ba trăm linh một gam) là ma túy, loại Methamphetamine.

Ti bản cáo trạng số 50/CT-VKS-TK ngày 18/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Nguyễn Hải Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải Đ phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đ từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, 28/5/2019; về hình phạt bổ sung: không áp dụng; về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy số ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia 105 màu đen cùng sim số 0365.203.073 của bị cáo Nguyễn Hải Đ; về án phí: buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Hải Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 28/5/2019, tại Đ 391 trước cửa quán Karaoke Vyka thuộc địa phận thôn Ô Mễ, xã Hưng Đạo, huyện T1, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Hải Đ có hành vi cất giấu trái phép 0,301 gam ma túy là loại methamphetamine tại túi quần phía sau bên trái, với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện bắt quả tang.

[2] Bị cáo Nguyễn Hải Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Khối lượng ma túy (Methamphetamine) mà bị cáo Đ tàng trữ là 0,301 gam nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Như vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước ở tất cả các khâu nên phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo thì mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào nhưng có nhân thân không tốt, thể hiện: Vào ngày 24/8/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội "tàng trữ trái phép chất ma túy" (bị cáo chấp hành xong bản án vào ngày 13/5/2011).

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải bắt bị cáo Đ cách ly đời sống xã hội một thời gian để Nhà nước giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Đ là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Số ma túy mà Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương hoàn lại sau giám định (0,241 gam) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy; chiếc điện thoại Nokia 105 lắp sim số 0365.203.073 mà Đ dùng để liên lạc mua ma túy là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước; chiếc xe máy Honda Wave S biển số 34P7-1896 là của chị Nguyễn Thị Liên (vợ bị cáo Đ), khi Đ sử dụng xe máy của chị Liên để đi mua ma túy, chị Liên không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ đã trả lại xe máy cho chị Liên là phù hợp.

[9] Quá trình điều tra, Nguyễn Hải Đ khai mua ma túy của người thanh niên tên Đạt (Đạt Phê) , trú tại xã Tái Sơn, huyện T1, tỉnh Hải Dương, Đ gọi vào số điện thoại của Đạt là 0968.288.103 để liên hệ mua ma túy. Kết quả xác minh thể hiện chủ thuê bao điện thoại 0968.288.103 mang tên Đoàn Thế Đạt, sinh năm 1994, trú tại xã Tái Sơn, huyện T1, tỉnh Hải Dương. Đoàn Thế Đạt khai không biết Nguyễn Hải Đ và không bán ma túy cho Đ, sáng 28/5/2019, Đạt làm rơi mất điện thoại và chưa làm thủ tục cấp lại sim. Ngoài lời khai của Nguyễn Hải Đ, không còn tài liệu, chứng cứ nào thể hiện Đoàn Thế Đạt bán ma túy cho Đ nên chưa đủ căn cứ để xử lý đối với hành vi của Đạt.

[10] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án này, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải Đ 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giữ, ngày 28/5/2019.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 0,241 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia 105 màu đen cùng sim số 0365.203.073 của bị cáo Nguyễn Hải Đ (đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vô Quốc hội quy dịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Hải Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về