Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 49/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 624/2018/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Viết M, sinh năm: 1979 (Có mặt)

HKTT: Ấp HS, xã PH, huyện LĐ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Chỗ ở: Ấp SC, xã NT, huyện CĐ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm: 1990 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 6, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/12/2018 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn – Ông Nguyễn Viết M trình bày:

Ông M xây dựng gia đình với bà M vào năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã PH, huyện LĐ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện không ai M mối ép buộc. Sau khi kết hôn thì ông M bà M chung sống đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, ngoài ra bà M còn có quan hệ tình cảm với người khác việc này do chính bà M thừa nhận, từ đó vợ chồng thường xảy ra cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung, đời sống vợ chồng lạnh nhạt. Ông M và bà M đã ngồi lại giải quyết mâu thuẫn nhiều lần nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được. Ông M và bà M ly thân từ năm 2016 đến nay, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông M yêu cầu được ly hôn với bà M.

- Về con chung: Ông M và bà M có 02 con chung tên Nguyễn Viết P, sinh ngày 17/02/2014 và Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/11/2016. Hiện nay cháu P đang sống cùng ông M, cháu M đang sống cùng bà M. Ông M yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu P và đồng ý để bà M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu M. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông M và bà M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập bà Nguyễn Thị Tuyết M đến tham gia hòa giải nhiều lần, nhưng bà M vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa bà M đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Ông Nguyễn Viết M yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với bà Nguyễn Thị Tuyết M, đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết M có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM.

Trong quá trình tham gia tố tụng, bà Nguyễn Thị Tuyết M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt bà M là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông M và bà M xây dựng gia đình vào năm 2013 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 02, quyển số 01/2013 ngày 08/01/2013 của UBND xã PH, huyện LĐ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Ông M và bà M chung sống hạnh Pc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, do ông M và bà M bất đồng quan điểm, nên thường phát sinh cãi vã, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Ông M và bà M đã ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Từ năm 2016 đến nay ông M và bà M sống ly thân, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Kết quả xác minh tại địa phương: Do ông M và bà M không hòa giải ở cơ sở nên địa phương không nắm rõ mâu thuẫn nhưng ông M và bà M không sống với nhau đã lâu là phù hợp với trình bày của ông M. Xét yêu cầu của ông M cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra ông M và bà M phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh Pc nhưng từ năm 2016 đến nay ông M và bà M ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau. Sau khi ông M gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, bà M vắng mặt không lý do, không thể hiện có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của ông M và bà M thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông M đối với bà M.

[3] Về con chung: Ông M và bà M có 02 con chung tên Nguyễn Viết P, sinh ngày 17/02/2014 và Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/11/2016. Hiện nay cháu P đang sống cùng ông M, cháu M đang sống cùng bà M. Ông M yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu P và đồng ý để bà M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Mỹ. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của ông M cho thấy, từ khi ông M nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay bà M không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc ông M có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu P. Đối với cháu M đang sống cùng bà M, ông M đồng ý để bà M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu M. Do đó để tránh xáo trộn cuộc sống của các cháu nên giao cháu P cho ông M, giao cháu M cho bà M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Hiện tại bà M chưa có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án chưa xem xét. Nếu sau này bà M có tranh chấp về vấn đề nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu. Ông M tự nguyện không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi cháu P là sự tự nguyện của ông M nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông M và bà M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ông M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 28, điểm a, khoản 1, Điều 35, điểm a, khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 227, 228, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Viết M đối với bà Nguyễn Thị Tuyết M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Viết M được ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết M.

2. Về con chung: Ông M và bà M có 02 con chung tên Nguyễn Viết P, sinh ngày 17/02/2014 và Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/11/2016. Ông Nguyễn Viết M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Viết P. Bà Nguyễn Thị Tuyết M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc M. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Viết M và bà Nguyễn Thị Tuyết M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông M và bà M không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Viết M phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm ông M đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004789 ngày 12/12/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông M đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử Phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:49/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về