TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 49/2018/HSST NGÀY 01/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2018/HSST ngày 11 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2018/QĐXXST - HS, ngày 19 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Phạm Trường H, sinh năm: 1988 tại Ninh B; nơi cư trú: Bon S, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C và bà Bùi Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Y và có 02 con; tiền án: 01 (Tháng 3/2014 phạm tội Vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2015/HSST ngày 15/9/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, đã chấp hành xong thời gian thử thách nhưng chưa thực hiện phần trách nhiệm dân sự, chưa được xóa án tích); tiền sự : 01 (Ngày 13/11/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Đã nộp phạt ngày 22/6/2018); bị bắt tạm giữ ngày 24/6/2018 sau đó chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ - có mặt.
Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn 1A, xã Quảng Sơn, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trương Đức Q, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn 1, xã Đ H, huyện Đ, Đắk Nông - vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 22/6/2018, Phạm Trường H, trú tại: Bon S, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông điều khiển xe mô tô không biển số, nhãn hiệu Dream mượn của B (không rõ nhân thân, lai lịch) đi tìm tài sản để trộm cắp. Do trước đây, Phạm Trường H nhiều lần đến nhà rẫy của chị Nguyễn Thị Kim H ở: Thôn Q, xã Q, huyện Đ và biết có 01 máy xịt thuốc gắn trên 01 khung sắt có 02 bánh lăn, đặt ở dưới phản gỗ nên H điều khiển xe đến nhà rẫy của chị H. Đến nơi, quan sát thấy không có ai nên H dùng tay giật mạnh làm bung cửa rồi đi vào bên trong nhà rẫy; sau đó kéo máy xịt thuốc gắn trên khung sắt ở dưới phản gỗ ra khỏi nhà rẫy rồi để lên xe mô tô chở đi cầm cố cho anh Trương Đức Q được số tiền 1.500.000 đồng để tiêu xài cá nhân.
Sau đó hành vi trộm cắp của Phạm Trường H bị phát hiện. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Phạm Trường H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại các kết luận định giá tài sản ngày 27/6/2018 và ngày 05/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ kết luận: 01 máy xịt thuốc hiệu Honda, loại GX 200-196cm3 có giá trị còn lại là 6.660.000 đồng; 01 khung bằng sắt, có 02 bánh lăn, có giá trị còn lại là 238.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 6.898.000 đồng.
Vật chứng của vụ án: 01 máy xịt thuốc hiệu Honda, loại GX 200- 196cm3, được gắn trên 01 khung sắt (có đặc diểm như trong biên bản) thu giữ của anh Trương Đức Q. Xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giữ nên ngày 17/7/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 14 trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Kim H.
Đối với xe mô tô không có biển số, nhãn hiệu Dream mà Phạm Trường H mượn của B sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành xác minh nhưng không thu giữ được.
Tại Cáo Trạng số 49/CTr-VKS, ngày 10-10-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Phạm Trường H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung vụ án, tính chất mức độ, hành vi phạm tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Trường H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; phần trách nhiệm dân sự bị hại không yêu cầu nên không đề cập; buộc bị cáo phải trả lại cho anh Q số tiền 1.500.000đ.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát ; bị cáo đồng ý trả lại số tiền 1.500.000đ theo yêu cầu của anh Q. Khi nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối cải và xin hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện Đ; Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Các chứng cứ buộc tội và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án là có căn cứ pháp lý qua đó xác định: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 22/6/2018, tại Thôn Q, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Phạm Trường H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Kim H 01 máy xịt thuốc hiệu Honda, loại GX 200-196cm3 được gắn trên 01 khung sắt có 02 bánh lăn với tổng giá trị là 6.898.000 đồng. Vì vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[4] Đối với anh Trương Đức Q khi nhận cầm cố máy xịt thuốc không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không xử lý là phù hợp.
[5] Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự : Cần chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng số 14 ngày 17/7/2018 trả lại 01 máy xịt thuốc hiệu Honda, loại GX 200-196cm3, được gắn trên 01 khung sắt (có đặc diểm như trong biên bản) cho chủ sở hữu hợp pháp là chị H.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị H không yêu cầu nên không đề cập. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Q yêu cầu bị cáo trả lại 1.500.000đ và tại phiên tòa bị cáo đồng ý nên cần chấp nhận.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Trường H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Trường H 01 (một) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/6/2018.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 14 ngày 17/7/2018 trả lại 01 máy xịt thuốc hiệu Honda, loại GX 200-196cm3, được gắn trên 01 khung sắt (có đặc diểm như trong biên bản thu giữ) cho chủ sở hữu hợp pháp là chị H.
3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị H không yêu cầu nên không đề cập. Áp dụng Điều 131 của Bộ luật dân sự buộc bị cáo phải trả lại cho anh Q 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày anh Q có đơn yêu cầu thi hành án thì bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án: buộc bị cáo Phạm Trường H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 49/2018/HSST ngày 01/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 49/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glong - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về