Bản án 484/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 484/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình thụ lý số 478/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 489/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đậu Văn Q - tên gọi khác: Không; sinh năm 1988 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm Đ, xã B, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Đậu Công C, sinh năm 1960 và con bà Vũ Thị L, sinh năm 1959; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 11/6/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) 2. Nguyễn Văn T - tên gọi khác: Không; sinh năm 1989 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm x, xã T, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1963 và con bà Lý Thị Đ, sinh năm 1968; Bị cáo có vợ Ma Thị H, sinh năm 1993 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2010; Tiền sự:

Không.

Tiền án: Tại bản án số 30/2016/HSST ngày 29/8/2016 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/11/2017.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 11/6/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) - Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1960, trú tại tổ Y, phường Q, thành phố TH (Vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ 15 phút ngày 11/6/2019, tổ công tác Công an phường Q, thành phố TH đang làm nhiệm vụ tại tổ Z của phường thì phát hiện có hai nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, nam thanh niên mặc áo phông cộc tay màu đen, quần dài màu xanh tự khai tên là Nguyễn Văn T, còn nam thanh niên mặc áo phông cộc tay màu xám tự khai tên là Đậu Văn Q và Q tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon bên trong là lớp giấy màu trắng có chứa chất bột màu trắng mà Q đang cầm ở tay phải. Q và T đều khai nhận là Heroine cả hai vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell đã qua sử dụng của Q và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng của T.

Cùng ngày, Cơ quan Canh sat điêu tra Công an thanh phô TH tiến hành mở niêm phong, cân xác định khôi lượng : Sô chât bột màu trắng có khố i lương 0,151 gam và lấy toàn bộ số chất bột màu trắng trên cho vào phong bì niêm phong ký hiệu Q1 để gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 907/KL- PC09 ngày 19/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận : Chât bột màu tr ắng trong mẫu Q1 gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine có khối lượng 0,151 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T và Đậu Văn Q khai nhận: Khoảng 06 giơ 45 phút ngày 11/6/2019, Q hẹn T là đối tượng cùng nghiện ma túy đến chợ Đ thuộc tổ Y, phường Q, thành phố TH. Tại đây T và Q thống nhất góp tiền mua ma túy để sử dụng chung. Q góp 50.000đ, T góp 65.000đ. Q là người cầm tiền đi mua ma túy, Q đi ra khu vực phía sau siêu thị HC gặp và mua 01 túi nilon bên trong là lớp giấy màu trắng có chứa Heroine của một người phụ nữ không quen biết với giá 115.000đ. Sau khi mua xong, Q cầm gói Heroine ở tay phải và cùng T đi đến khu vực nhà vệ sinh ở chợ Đ để cùng sử dụng ma tuy thì tổ công tác Công an phường Q, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng cua vu an:

- 01 (môt) bì niêm phong ký hiệu Q1.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen xám, số Imei: 355506050195764 trong máy có gắn 01 sim Viettel của Nguyễn Văn T.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, số Imei 1: 812896062469137, Imei 2: 812890624669137 trong máy có gắn 01 sim Viettel của Đậu Văn Q.

Bản Cáo trạng số 467/CT -VKSTPTN ngày 14 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố các bị cáo Đậu Văn Q và Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đậu Văn Q và Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang , lơi khai cua ngươi chưng kiên ,vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác đã thu thâp được có trong hồ sơ vụ án.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Đậu Văn Q và Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng điểm c khoản 1Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Đậu Văn Q từ 18 đến 24 tháng tù giam.

2. Áp dụng điểm c khoản 1Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu Q1(Bì niêm phong chứa chất ma túy).

Tm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen xám, số Imei: 35550605195764 trong máy có gắn 01 sim Viettel của Nguyễn Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, số Imei 1: 812896062469137, Imei 2: 812890624669137 trong máy có gắn 01 sim Viettel của Đậu Văn Q để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hi 07 giờ 15 phút ngày 11/6/2019, tại tại khu vực tổ 23, phương Q, thành phô TH, Đậu Văn Q và Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ 0,151 gam Heroine mục đich đê cùng nhau sư dung cho ban thân thì bị tổ công tác cua Công an phương Q, thành phố TH phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b c, Heroine..., có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Vin kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xét xử các bị cáo với mức án phù hợp, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, thống nhất từ trước. Do đó các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do các bị cáo gây ra.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo Đậu Văn Q chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.

Đi với bị cáo Nguyễn Văn T: Tại bản án số 30/2016/HSST ngày 29/6/2016 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/11/2017, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS đó là tái phạm.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc mức hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra các bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS.Tuy nhiên xác định các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu Q1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy) thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen xám, số Imei: 35550605195764 trong máy có gắn 01 sim Viettel của Nguyễn Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, số Imei 1: 812896062469137, Imei 2: 812890624669137 trong máy có gắn 01 sim Viettel của Đậu Văn Q, xác định không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho các bị cáo, song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo Đậu Văn Q khai mua của một người phụ nữ không quen biết để Q và T sử dụng chung. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Các bị cáo Đậu Văn Q và Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" 2. Về hình phạt:

2.1. Đối với bị cáo Đậu Văn Q: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Đậu Văn Q 18(Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019.

2.2. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 21(Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Q định tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

3.1. Tịch thu tiêu huỷ 01(một) bì niêm phong ký hiệu Q1 (bên trong chứa chất ma túy).

3.2. Trả 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen xám, số Imei: 35550605195764 trong máy có gắn 01 sim Viettel đã qua sử dụng cho bị cáo Nguyễn Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, số Imei 1: 812896062469137, Imei 2: 812890624669137 trong máy có gắn 01 sim Viettel đã qua sử dụng cho Đậu Văn Q. Song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 488 ngày 22/8/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đậu Văn Q, Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 484/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:484/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về