Bản án 48/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 879/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 196/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Nguyễn Như Y - sinh năm: 1994 Trú tại: 174/17 đường T, thành phố QN, tỉnh BĐ.

- Bị đơn: Anh Trần Minh H - sinh năm: 1987 Trú tại: 79 đường P, thành phố QN, tỉnh BĐ.

(Chị Y có mặt, anh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/8/2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Nguyễn Nguyễn Như Y trình bày:

Chị và anh Trần Minh H tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường K, thành phố QN vào ngày 28/01/2019. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống đến tháng 8/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sinh hoạt và nuôi dạy con; vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh H đã dùng lời nói xúc phạm và đôi khi đánh chị. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, anh chị đã sống ly thân, không có khả năng đoàn tụ. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Minh H.

Về con chung: Trong quá trình chung sống anh chị có 01 con chung tên Trần Hoàng Khánh A, sinh ngày 04/3/2019. Hiện nay cháu A đang sống với chị, sức khỏe bình thường. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

* Bị đơn anh Trần Minh H:

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không đến Tòa để khai báo, hòa giải. Tại phiên tòa hôm nay, anh H cũng vắng mặt không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70, Điều 72 BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56; khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 4: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Nguyễn Như Y về việc xin ly hôn anh Trần Minh H, giao cháu A cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Trần Minh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án (điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự).

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào nội dung tranh chấp của các đương sự, HĐXX xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” (khoản 1 Điều 28 BLTTDS), thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn (điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS).

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Nguyễn Như Y và anh Trần Minh H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường K, thành phố QN vào ngày 28/01/2019, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, giữa chị Y và anh H đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H không đến Tòa để khai báo, hòa giải. Điều này chứng tỏ anh H không có thiện chí muốn hòa hợp. Đây cũng là trường hợp bị đơn cố tình lẫn tránh, gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. HĐXX xét: Hôn nhân của chị Y, anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của chị Y là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

[2.2] Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung là Trần Hoàng Khánh A, sinh ngày 04/3/2019. HĐXX xét: hiện nay cháu A đang sống với chị Y và được đảm bảo tốt về mọi mặt. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị Y được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu A. Chị Y không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về chia tài sản: Chị Y không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Sau này có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác nếu có yêu cầu.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Chị Y phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ sơ thẩm.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Nguyễn Như Y ly hôn anh Trần Minh H.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung cháu Trần Hoàng Khánh A, sinh ngày 04/3/2019 cho chị Nguyễn Nguyễn Như Y được trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Chị Nguyễn Nguyễn Như Y không yêu cầu anh Trần Minh H cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được ngăn cản. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Chị Y không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Nguyễn Như Y phải chịu 300.000đ án phí, nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0008550 ngày 06/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn. Chị Y đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về