Bản án 48/2021/HNGĐ-ST ngày 06/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2021/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1983; Thường trú: Số H, đường Đ, thôn B, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thành V, sinh năm 1981; Thường trú: Số H, đường Đ, thôn B, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; địa chỉ liên hệ: Quầy thuốc tây G, đường T, tổ B, khu phố T, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

Chị H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh V vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 11/01/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Nguyễn Thành V tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 02 năm thì tổ chức lễ cưới, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ (nay là xã N) và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 51/2010, quyển số 02/2010 ngày 07/12/2010.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại thôn B, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mẫu thuẫn là do anh V có người phụ nữ khác bên ngoài nên không quan tâm, chăm lo cho gia đình, một mình chị H chăm sóc con cái. Từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, anh V đi khỏi nhà sinh sống nơi khác, vợ chồng chính thức ly thân từ đó, không còn thương yêu nhau và cùng nhau chăm sóc con. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy, chị H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Thành V.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Lê T, sinh ngày 23/10/2011 và Nguyễn Lê C, sinh ngày 16/01/2013. Hiện nay con đang sống cùng với chị H. Sau khi ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị làm công việc y sĩ bán thuốc tây, thu nhập bình quân 01 tháng là 8.000.000 đồng. Do tự kinh doanh nên chị có nhiều thời gian chăm sóc cho các con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Thành V đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh V không đến Toà án làm việc, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngày 23/3/2021, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa chị Lê Thị H, anh Nguyễn Thành V và được ông Nguyễn D là cha ruột của anh V cung cấp: Chị H và anh V là vợ chồng, xây dựng nhà kế bên nhà ông D. Trước đây, chị H được gia đình chồng tạo điều kiện cho làm ăn nhưng không thành công, thêm việc có quan hệ tình cảm với người khác nên dẫn đến vợ chồng không hòa thuận, anh V không sinh sống ở nhà mà sống ở cửa hàng thuốc tây tại thị trấn Đ. Con cái do chị H trực tiếp chăm sóc, có ông D và vợ cùng phụ giúp chăm nom. Theo ông nhận thấy chị H, anh V không thể sống chung được nữa và cũng mong muốn để chị H tiếp tục nuôi 02 con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án: nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung tên Nguyễn Lê T, sinh ngày 23/10/2011 và Nguyễn Lê C, sinh ngày 16/01/2013 cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 20/4/2021 và ngày 06/5/2021 nhưng bị đơn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227, 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Thành V tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 02 năm thì tổ chức lễ cưới, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ (nay là xã N), huyện Đ, tỉnh Bình Thuận và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 51/2010, quyển số 02/2010 ngày 07/12/2010 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Trong quá trình chung sống, chị Lê Thị H cho rằng do anh V có người phụ nữ khác bên ngoài nên không quan tâm, chăm lo cho gia đình, một mình chị H chăm sóc con cái. Từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, anh V đi khỏi nhà sinh sống nơi khác, vợ chồng chính thức ly thân từ đó, không còn thương yêu nhau và cùng nhau chăm sóc con. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy, chị H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Thành V.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và đã nhiều lần triệu tập anh Nguyễn Thành V đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Nguyễn Thành V không có mặt. Bên cạnh đó, chị Lê Thị H cũng có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải với anh Nguyễn Thành V. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của anh chị đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc anh Nguyễn Thành V bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân, cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị H và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Lê Thị H.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Lê T, sinh ngày 23/10/2011 và Nguyễn Lê C, sinh ngày 16/01/2013.

Xét, trong suốt quá trình tố tụng, anh V vắng mặt nên không có ý kiến về việc nuôi con chung. Hiện nay các cháu đang ở cùng với chị H, do chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dạy. Theo trình bày của ông D cha của anh V, thì hiện nay anh V đang ở tại tiệm thuốc tây của mình ở thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận và thường xuyên ghé về nhà, tuy nhiên chị H là người trực tiếp chăm sóc các con. Bên cạnh đó, theo nguyện vọng của 02 cháu Nguyễn Lê T và Nguyễn Lê C, khi cha mẹ ly hôn 02 cháu muốn được sống cùng với mẹ là chị H. Xét thấy, khi giải quyết ly hôn, việc giao con cho cha hay mẹ nuôi thì phải đảm bảo được sự phát triển toàn diện về mọi mặt cho đứa trẻ. Từ những nhận định trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị H về việc được trực tiếp nuôi dưỡng con chung các cháu Nguyễn Lê T và Nguyễn Lê C.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con của chị Lê Thị H đối với anh Nguyễn Thành V và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H đối với anh Nguyễn Thành V về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Thành V.

- Về con chung: Giao cho chị Lê Thị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Nguyễn Lê T, sinh ngày 23/10/2011 và Nguyễn Lê C, sinh ngày 16/01/2013.

Sau ly hôn, chị Lê Thị H và anh Nguyễn Thành V đều có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh V lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị H nuôi con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị H không yêu cầu anh Nguyễn Thành V cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005179, ngày 18/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Chị Lê Thị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HNGĐ-ST ngày 06/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về