Bản án 48/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/9/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2020/TLST-HS ngày 28/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2020/QĐXXST-HS ngày 10/9/2020 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Thào A C (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1985 tại xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thào A C (sinh năm 1955) và bà Hạng Thị V (đã chết); có vợ là Sùng Thị D (sinh năm 1986) và có 03 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 28/9/2011 bị Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/5/2020 đến ngày 27/5/2020, tạm giam từ ngày 27/5/2020 đến nay, có mặt.

2. Bị cáo Giàng A S (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1987 tại xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A X (đã chết) và bà Hạng Thị Ch (đã chết); có vợ là Hạng Thị B (sinh năm 1987) và có 03 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/5/2020 đến ngày 27/5/2020, tạm giam từ ngày 27/5/2020 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Pờ Go L, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hạng Thị B, sinh năm 1987, nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 17/5/2020, Thào A C sang nhà Giàng A S để rủ Sính góp chung tiền đi mua thuốc phiện về sử dụng, S đồng ý và cả hai góp tiền chung nhau được 15.000.000 đồng (S có 1.200.000 đồng và Cá có 13.800.000 đồng). Sau đó S lấy xe mô tô của S (biển kiểm soát 25M1-003.15) chở C đi tìm mua thuốc phiện, đến khoảng 10 giờ S và C đến khu vực bản N, xã M, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, cả hai giấu xe mô tô cạnh đường và đi bộ đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì lên đến khu vực biên giới Việt Nam- Lào thuộc địa phận bản N 2, xã M, huyện M. Do trời tối nên cả hai ngủ tại đó, đến khoảng 3 giờ ngày 18/5/2020 S và C gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt 03 gói thuốc phiện với giá 15.000.000 đồng. Mua bán xong ông ta đi đâu S và C không rõ, còn S và C cất số thuốc phiện vừa mua được vào trong ba lô của C rồi chờ đến khi trời sáng cả hai cùng nhau đi bộ ra về, đến 19 giờ cùng ngày 18/5/2020 thì về đến chỗ cất giấu xe mô tô và lấy xe mô tô đi về nhà, đến khoảng 19 giờ 40 phút khi về đến bản Đ, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên thì bị tổ công tác đồn biên phòng M và đồn biên phòng L phối hợp với Công an huyện M phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số thuốc phiện trong ba lô, thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 25 M1-003.15 và 01 chiếc ba lô màu xanh cũ đã qua sử dụng. S và C khai nhận mục đích mua thuốc phiện về để sử dụng.

Kết luận giám định số 457/GĐ-PC09 ngày 30/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 03 (ba) mẫu chất dẻo màu nâu đen gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Thào A C và Giàng A S là thuốc phiện; Khối lượng vật chứng thu giữ của Thào A C và Giàng A S là 282,56 gam.

Theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của công an huyện Mường Tè thì chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088, chủ sở hữu là Lý Trùy H, địa chỉ xã Th, huyện M, tỉnh Lai châu.

Cáo trạng số 45/CT-VKS-MN ngày 27/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Thào A C và Giàng A S để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Tuyên bố các bị cáo Thào A C và Giàng A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Đề nghị xử phạt bị cáo Thào A C từ 36 đến 42 tháng tù; Đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A S từ 34 đến 40 tháng tù; Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 273,55 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã trích giám định và 01 chiếc ba lô màu xanh cũ, đã qua sử dụng; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088; Trả lại cho vợ bị cáo là chị Hạng Thị B ½ giá trị chiếc xe máy trên (kèm chìa khóa xe);

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với luận tội về tội danh; điều khoản áp dụng; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng vụ án và án phí; phần hình phạt chính đề nghị xử phạt bị cáo Thào A C từ 30 đến 36 tháng tù, đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A S từ 30 đến 34 tháng tù.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên và đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hạng Thị B khai: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088 là tài sản chung của vợ chồng bị cáo. Nguồn gốc chiếc xe này là vợ chồng bị cáo mua của anh Lý Trùy H ở huyện M, tỉnh Lai Châu (có giấy tờ mua bán xe), nhưng chưa sang tên đổi chủ. Chị B không biết gì về việc các bị cáo C và S dùng xe mô tô này để đi mua ma túy. Chị B đề nghị cơ quan có thẩm quyền trả lại cho chị chiếc xe mô tô trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét hành vi phạm tội và những căn cứ xác định tội danh của bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo khai do bản thân nghiện ma túy nên các bị cáo đã đi tìm mua thuốc phiện về sử dụng, ngày 18/5/2020 các bị cáo mua được 282,56 gam thuốc phiện của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết với giá 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) tại khu vực biên giới Việt Nam – Lào thuộc địa phận bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Khoảng 19 giờ 40 phút khi đang trên đường quay về đến bản Đ, xã Ch, huyện M thì bị bắt quả tang và bị thu giữ toàn bộ số thuốc phiện, thu giữ xe mô tô dùng để đi mua thuốc phiện và 01 chiếc ba lô cũ đã qua sử dụng màu xanh. Các bị cáo khai nhận mục đích mua thuốc phiện là để sử dụng. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ để xác định:

Hành vi tàng trữ trái phép 282,56 gam thuốc phiện với mục đích để sử dụng của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 45/CT-VKS-MN ngày 27/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố bị cáo để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn về ma túy, các bị cáo đều thực hiện hành vi phạm tội với tư cách là người thực hành.Trong đó bị cáo C là người chủ động rủ bị cáo cáo S cùng góp tiền đi mua ma túy, đồng thời C cũng là người góp nhiều tiền hơn, do vậy cần xử phạt bị cáo C với mức hình phạt cao hơn để đảm bảo tính răn đe. Đối với bị cáo S mặc dù không chủ động nhưng khi được C rủ thì cũng tích cực tham gia cùng thực hiện hành vi phạm tội nên cũng cần có mức hình phạt tương xứng. Trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo Thào A C là người có nhân thân xấu, năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành án xong, đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân để tu dưỡng rèn luyện chấp hành đúng quy định pháp luật mà lại thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên phải bị xét xử như ngày hôm nay. Đối với bị cáo Giàng A S là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo C và S thành khẩn khai báo nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về áp dụng hình phạt đối với các bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần xử phạt các bị cáo nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Thào A C từ 36 đến 42 tháng tù, xử phạt bị cáo Giàng A S từ 34 đến 40 tháng tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo Thào A C từ 30 đến 36 tháng tù, bị cáo Giàng A S từ 30 đến 34 tháng tù. Xét đề nghị của Viện kiểm sát đối với các bị cáo và đề nghị của người bào chữa đối với đối bị cáo S là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật. Còn đề nghị của người bào chữa đối với bị cáo C là thấp chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên cần xử phạt bị cáo C với mức hình phạt cao hơn đề nghị của người bào chữa để đảm bảo tính răn đe.

Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của các bị cáo khó khăn, hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đi với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh nên không có cơ sở để xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 273,55 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã trích giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc ba lô cũ đã qua sử dụng màu xanh, xét thấy chiếc ba lô này không còn giá trị sử dụng nên cần tích thu tiêu hủy.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088: Đây là chiếc xe mô tô vợ chồng bị cáo mua của anh Lý Trùy H ở huyện M, tỉnh Lai Châu (có giấy tờ mua bán xe nhưng chưa sang tên đổi chủ), Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, các bị cáo C và S đã sử dụng chiếc xe máy này làm phương tiện để đi mua thuốc phiện nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên vợ bị cáo là chị B không biết gì về việc các bị cáo dùng xe mô tô này để đi mua thuốc phiện nên cần căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình; các Điều 213, 218, 219 Bộ luật Dân sự: Tịch thu ½ giá trị chiếc xe máy để nộp vào ngân sách Nhà nước và trả lại cho chị Hạng Thị B ½ giá trị chiếc xe máy trên (kèm chìa khóa).

[7] Về án phí: Xét thấy các bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố các bị cáo Thào A C và Giàng A S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Thào A C 38 (Ba mươi tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 18/5/2020.

Xử phạt bị cáo Giàng A S 34 (Ba mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 18/5/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình; các Điều 213, 218, 219 Bộ luật Dân sự:

Tch thu, tiêu huỷ 273,55 gam thuốc phiện và 01 chiếc ba lô màu xanh của Thào A C.

Tch thu ½ giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088 để nộp ngân sách nhà nước;

Trả lại cho chị Hạng Thị Bia ½ giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088 (Kèm chìa khóa xe).

(Theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của công an huyện Mường Tè thì chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 25M1-003.15, số máy JC43E1678977, số khung RLHJC431QBY125088, chủ sở hữu là Lý Trùy H, địa chỉ xã Th, huyện M, tỉnh Lai châu).

Chi tiết vật chứng được mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/8/2020 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về