Bản án 48/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Vàng Văn T, sinh năm 1975, tại huyện S H, tỉnh Lai Châu.

Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản T 1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Vàng Văn P, sinh năm 1945, đã chết Con bà: Lò Thị K, sinh năm 1946, đã chết.

Bị cáo có vợ Lò Thị B, sinh năm 1979 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/6/2019, tạm giam ngày 24/6/2019, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Văn S, sinh năm 1976, địa chỉ bản T Ph , xã S P Ph, huyện N, tỉnh Điện Biên, xin xét xử vắng mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Vàng Văn T: Ông Bùi Đình M, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 00 phút, ngày 14/6/2019, Vàng Văn T mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 030.30 của anh Lò Văn S ở cùng bản mục đích đi mua ma túy về sử dụng. Bị cáo đi vào một số bản của xã M Th H tìm mua Heroine nhưng không mua được. Tối cùng ngày, bị cáo đi xe mô tô vào bản Huổi Quang, xã M Th H gặp, giao dịch và mua được 300.000 đồng Heroine của một người đàn ông khoảng 60 tuổi bị cáo không rõ lai lịch. Mua được Heroine, bị cáo cầm ở tay trái và điều khiển xe mo tô đi về nhà. Trên đường về đến bản Ph L 1, xã S P Ph, huyện N thì bị Đồn Biên phòng S Ph Ph phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng của bị cáo.

Cáo trạng số 53/CT-VKSNP ngày 13/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Vàng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Vàng Văn T từ 18 đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng của vụ án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện N và luận cứ bào chữa của Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ phạm tội:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 03 giờ 00 phút ngày 15/6/2019 bút lục 01, 02 chứng minh bị cáo Vàng Văn T bị bắt khi đang tàng trữ ma túy. Tổ công tác Đồn Biên phòng S Ph Ph tạm giữ của bị cáo một gói ni lông màu đen bên trong có chứa chất bột màu trắng đục nghi là Heroine và một xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 030.30.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 30 phút ngày 15/6/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N bút lục số 35, 36 khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Vàng Văn T là 0,47 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,07 gam.

Kết luận giám định số 637/GĐ-PC09 ngày 22/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 41 mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng Văn T gửi giám định là chất ma túy loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Vàng Văn T có tội. Bị cáo đã đi mua ma túy là Heroine với mục đích sử dụng. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp và đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vàng Văn T có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[2] Về tính chất mức độ phạm tội: Khối lượng ma túy bị thu giữ của Vàng Văn T là 0,47 gam Heroine. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam. Tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo sinh ra ở huyện S H, tỉnh Lai Châu. Năm 1993 bị cáo chuyển đến sinh sống ở bản T Ph 1, xã S P Ph, huyện N, tỉnh Điện Biên. Bị cáo do không làm chủ được bản thân nên đã sớm nghiện ma túy. Đây là nguyên nhân chính để bị cáo phạm tội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối chiếu các quy định tại khoản 1 của Điều 52 Bộ luật hình sự thì bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

Hi đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn phải nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Vàng Văn T.

[8] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án là 0,47 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,07 gam không hoàn lại đối tượng giám định. Vật chứng này tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vật chứng là một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 030.30 do Vàng Văn T sử dụng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô trên là của anh Lò Văn S, sinh năm 1976, địa chỉ ở bản T1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp. Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ do vậy Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định tại Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Lò Văn S vắng mặt được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính.

[11] Các vấn đề khác:

Ngun gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một đàn ông khoảng 60 tuổi bị cáo không rõ lai lịch ở khu vực xã Huổi Quang, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có đủ cơ sở để làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Lò Văn S đã cho Vàng Văn T mượn xe mô tô thuộc quyền sở hữu của mình để T thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra Lò Văn S không liên quan đến hành vi của bị cáo. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Vàng Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 15/6/2019.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,47 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,07 gam không hoàn lại đối tượng giám định. Vật chứng còn lại 0,4 gam được niêm phong trong phong bì công văn của Công an huyện N có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng hồi 10 giờ 00 phút ngày 16/9/2019 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

- Chấp nhận biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu hồi 17 giờ 00 phút ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Công an huyện N trả tài sản cho Lò Văn S.

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Vàng Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 09/10/2019. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về