Bản án 48/2017/HSST ngày 15/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 48/2017/HSST NGÀY 15/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 15 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, xét xử lưu động sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2017/HSST ngày 27/6/2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2017/HSST-QĐ ngày 01/8/2017, đối với bị cáo:

Phạm Văn T (tự T rồng), sinh năm 1986 tại Campuchia; nơi ĐKHKTT và Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ văn hóa: Không biết chữ; con ông Phạm Văn Hạnh và bà Trương Thị Cát; có vợ tên là Miễn Thị Tây, sinh năm 1991 và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án: Không có; tiền sự: có 01 tiền sự: tại Quyết định xử lý hành chính số: 17 ngày 19/12/2016 của Trưởng Công an xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo chưa chấp hành theo nội dung Quyết định; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 10/02/2017 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 08/02/2017, Lê Văn Tuấn sinh năm 1989, cư trú tại ấp Đông Tiến, xã Tân Đông, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh điện thoại cho Phạm Văn T hỏi mua 02 bịch ma túy với số tiền 600.000 đồng. T đồng ý bán ma túy và hẹn gặp nhau tại khu vực đường bê tông thuộc ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh để thực hiện giao dịch mua bán. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô Wave không biển số đến địa điểm đã hẹn gặp Tuấn và Nguyễn Hoàng Nghiệp, sinh năm 1994, cư trú tại ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, giao 02 bịch ma túy và nhận số tiền 600.000 đồng. Trên đường đi về nhà Tuấn bị Công an huyện Tân Châu phát hiện bắt quả tang cùng tang vật vào lúc 16 giờ 10 phút cùng ngày.

Ngoài ra trong quá trình điều tra, Phạm Văn T còn khai nhận sau khi sang Campuchia mua ma túy của một người tên Vin (không rõ nhân thân, địa chỉ) về Việt Nam, với mục đích thu lợi nhuận, T đã bán ma túy các lần như sau:

- Vào khoảng 17 giờ, ngày 23/12/2016 tại Quán cà phê Suối Tình thuộc ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, Phạm Văn T có bán cho Nguyễn Tấn Đạt, sinh ngày 12/11/2002 và Trương Minh Thuận, sinh năm 2002 cùng ngụ tại ấp Đông Tiến, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh một bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng;

- Vào khoảng tháng 01/2017, Phạm Văn T có bán cho Lê Văn Tuấn và Phạm Huy Lâm, sinh năm 1982, ngụ tại ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh một bịch ma túy với số tiền 400.000 đồng;

- Vào khoảng 21 giờ, ngày 29/01/2017 tại nhà của Lâm, Phạm Văn T có bán cho Phạm Huy Lâm và Nguyễn Hoàng Nghiệp một bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng;

- Vào khoảng 12 giờ, ngày 05/02/2017 tại nhà của Lâm, Phạm Văn T có bán cho Phạm Huy Lâm và Nguyễn Hoàng Nghiệp một bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng;

- Vào khoảng 16 giờ cùng ngày 05/02/2017, tại nơi ở của T, Phạm Văn T có bán cho Phạm Huy Lâm và Lê Văn Tuấn tại nhà của Lâm một bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng;

- Vào khoảng 21 giờ, ngày 05/02/2017 tại nhà của Lâm, Phạm Văn T có bán cho Phạm Huy Lâm và Nguyễn Hoàng Nghiệp một bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng;

- Vào khoảng 21 giờ, ngày 06/02/2017 tại nhà của Lâm, Phạm Văn T có bán cho Phạm Huy Lâm và Nguyễn Hoàng Nghiệp một bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng;

- Vào khoảng 13 giờ, ngày 08/02/2017 tại đoạn đường bê tông thuộc ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, Phạm Văn T có bán cho Phạm Huy Lâm một bịch ma túy với số tiền 400.000 đồng;

* Kết quả giám định: Tại bản Kết luận giám định số: 27/MT-2017, ngày 11/02/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận:

- Tinh thể rắn màu trắng bên trong 02 bịch nylon được hàn kín hai đầu (ký hiệu M1) là chất ma túy tên gọi Methamphetamin; trọng lượng 0.1503 gam, sau giám định còn lại 0.1054 gam;

- Tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon được hàn kín hai đầu (ký hiệu M2) là chất ma túy tên gọi Methamphetamin; trọng lượng 0.0869 gam, sau giám định còn lại 0.0423 gam;

- Tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon được hàn kín hai đầu (ký hiệu M3) là chất ma túy tên gọi Methamphetamin; trọng lượng 0.0815 gam, sau giám định còn lại 0.0476 gam;

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

- Thu giữ của Lê Văn Tuấn 02 bịch nylon được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn, màu trắng đã được niêm phong (ký hiệu M1), có chữ ký xác nhận của Lê văn Tuấn;

- Thu giữ tại phòng trọ nơi Phạm Văn T cư trú 01 bịch nylon được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn, màu trắng đã được niêm phong (ký hiệu M2), có điểm chỉ dấu vân tay của Phạm Văn T;

- Thu giữ của Phạm Huy Lâm 01 bịch nylon được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn, màu trắng đã được niêm phong (ký hiệu M3), có điểm chỉ dấu vân tay của Phạm Huy Lâm;

- Thu giữ tại phòng trọ nơi Phạm Văn T cư trú các vật chứng gồm: 01 bình thủy tinh; 01 cái nỏ; 03 cái kéo bằng kim loại; 12 cái quẹt ga; 01 cái lưỡi lam đã qua sử dụng; 24 ống hút bằng nhựa chưa qua sử dụng; 18 đoạn ống hút bằng nhựa đã qua sử dụng; 07 túi nhựa chưa qua sử dụng; 03 túi nhựa đã qua sử dụng; 04 vỏ bịch nylon được hàn kín một đầu; 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1, số IMEI 869125022815863; Tiền Việt Nam 2.150.000 đồng và 01 xe mô tô hiệu Wave màu xanh, không có biển số, số máy RL8PD152FMH*011054*, số khung bị đục xóa.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số 48/QĐ/KSĐT ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Phạm Văn T (T rồng) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, e khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Văn T (T rồng) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, e khoản 2 Điều 194; các điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Phạm Văn T (T rồng) từ 08 đến 10 năm tù. Thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày 10/02/2017.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các vật chứng thu giữ trong vụ án theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong khoản thời gian từ cuối năm 2016 đến đầu năm 2017, do nghiện ma túy, muốn có ma túy sử dụng và muốn có tiền tiêu xài, Phạm Văn T đã mua ma túy của một người tên Vin (không rõ nhân thân, địa chỉ) bán để thu lợi. Cụ thể bị cáo đã bán ma túy tổng cộng 09 lần cho các đối tượng nghiện ma túy là Lê Văn Tuấn, Phạm Huy Lâm, Nguyễn Hoàng Nghiệp, Trương Minh Thuận, sinh năm 2002, Nguyễn Tấn Đạt, sinh ngày 12/11/2002 và vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 08/02/2017, bị cáo T bán cho Lê Văn Tuấn 02 bịch ma túy, nhận số tiền 600.000 đồng. Khi giao nhận ma túy xong, trên đường về nhà Lê Văn Tuấn bị Công an huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang cùng tang vật.

Tại bản Kết luận giám định số: 27/MT-2017, ngày 11/02/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Đối tượng được ký hiệu M1, M2, M3, M4 thu giữ tại nơi cư trú của bị cáo T, trên người Lê Văn Tuấn và Phạm Huy Lâm là ma túy, có tên gọi Methamphetamine, lần lượt có trọng lượng là 0,1503 gam, 0.0869 gam và 0,0815 gam.

Bị cáo đã thực hiện nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy, trong đó có 01 lần bán ma túy cho Nguyễn Tấn Đạt, sinh năm 2002 là người chưa thành niên. Do đó hành vi của bị cáo Phạm Văn T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, e khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

Đối với người tên Vin, bị cáo T khai nhận đã bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, địa chỉ nên khi nào xác định được và làm rõ hành vi sẽ có biện pháp xử lý sau.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn T là rất nguy hiểm cho xã hội, vi phạm Điều 3 Luật phòng chống ma túy; xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương; làm gia tăng tệ nạn xã hội tại địa phương nói riêng và xã hội nói chung nên cần phải có mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội và đồng thời mới có tác dụng giáo dục răn đe phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến các yếu tố về nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử về các tội “Cố ý gây thương tích”, “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và “Trốn khỏi nơi giam”, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo không biết ăn năn, hối cải để làm người công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội khác; bị cáo có một tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị Trưởng Công an xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 17 ngày 19/12/2016 xử phạt bị cáo 750.000 đồng nhưng bị cáo chưa chấp hành theo nội dung Quyết định.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự thú khai nhận các lần bán ma túy, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm o, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Phạm Văn T không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng là số lượng ma túy được hoàn lại sau khi giám định được niêm phong có chữ ký của giám định viên gồm: Đối tượng M1: trọng lượng 0.1054 gam; đối tượng M2: trọng lượng 0.0423 gam; đối tượng M3: trọng lượng: 0.0476 gam; 01 bình thủy tinh; 01 cái nỏ; 03 cái kéo bằng kim loại; 12 cái quẹt ga; 01 cái lưỡi lam đã qua sử dụng; 24 ống hút bằng nhựa chưa qua sử dụng; 18 đoạn ống hút bằng nhựa đã qua sử dụng; 07 túi nhựa chưa qua sử dụng; 03 túi nhựa đã qua sử dụng; 04 vỏ bịch nylon được hàn kín một đầu. Đây là các vật chứng thu giữ trong vụ án là vật cấm mua bán, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1, số IMEI 869125022815863 và 01 xe mô tô hiệu Wave màu xanh, không có biển số, số máy RL8PD152FMH*011054*, số khung bị đục xóa. Đây là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm nên cần tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với vật chứng thu giữ là Tiền Việt Nam 2.150.000 đồng, trong số tiền bị thu giữ bị cáo thừa nhận có 600.000 đồng là thu lợi từ việc mua bán ma túy mà có do đó cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước, riêng số tiền 1.550.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần hoàn trả cho bị cáo. Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng này đang được tạm giữ tại Cơ quan Chi cục thi hành án huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh).

- Đối với số tiền 1.800.000 đồng bị cáo có được từ việc mua bán ma túy, bị cáo đã sử dụng vào chi dùng cá nhân, do đó buộc bị cáo nộp lại thu sung vào công quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn T (T rồng) phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T (T rồng) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b, e, khoản 2 Điều 194; các điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T (T rồng) 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/02/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: số lượng ma túy được hoàn lại sau khi giám định được niêm phong có chữ ký của giám định viên gồm: Đối tượng M1: trọng lượng 0.1054 gam; đối tượng M2: trọng lượng 0.0423 gam; đối tượng M3: trọng lượng: 0.0476 gam; 01 bình thủy tinh; 01 cái nỏ; 03 cái kéo bằng kim loại; 12 cái quẹt ga; 01 cái lưỡi lam đã qua sử dụng; 24 ống hút bằng nhựa chưa qua sử dụng; 18 đoạn ống hút bằng nhựa đã qua sử dụng; 07 túi nhựa chưa qua sử dụng; 03 túi nhựa đã qua sử dụng; 04 vỏ bịch nylon được hàn kín một đầu.

- Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1, số IMEI 869125022815863 và 01 xe mô tô hiệu Wave màu xanh, không có biển số, số máy RL8PD152FMH*011054*, số khung bị đục xóa.

- Tịch thu số tiền 600.000 đồng và buộc bị cáo T nộp lại số tiền 1.800.000 đồng thu lợi bất chính để sung công quỹ Nhà nước.

- Hoàn trả cho bị cáo 1.550.000 đồng nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 02 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 98 và Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Văn T (T rồng) phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo Phạm Văn T (T rồng) biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2017/HSST ngày 15/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về