TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 18/2017/HSST NGÀY 11/05/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 11 tháng 5 năm 2017, tại trường Cao đẳng thống kê Bắc Ninh, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa lưu động công khai theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14 ngày 26/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2017/HSST ngày 12 tháng 04 năm 2017 đối với bị cáo:
Phí Thành N (tên gọi khác: Phí Ngọc N), sinh năm 1973;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn T, xã Đ, thị xã C, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Phí Ngọc L, sinh năm 1935 và bà Đào Thị T, sinh năm 1935; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là thứ ba.
Vợ là Phan Thị Thu H, sinh năm 1974 (đã ly hôn) và 01 con, lớn sinh năm 1995.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Ngày 17/10/2000, Phí Thành N bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 31/10/2002, Phí Thành Nbị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
- Ngày 12/12/2002, Phí Thành N bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 28/11/2007, Phí Thành N bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hải Dương xử phạt 07 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 06/5/2013.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/11/2016 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
* Người bào chữa do Tòa án chỉ định cho bị cáo: Ông Trần Đình Thống - Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 11h30’ ngày 30/11/2016, tại phòng 304 nhà nghỉ Trường Sơn thuộc thôn Kiều Lương, xã Đức Long, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC47) – Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Phí Thành N đang có hành vi chuẩn bị mua bán trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ được gồm có: Tại túi áo khoác của N có 01 túi nilon màu đen bên trong có 04 túi nilon màu trắng đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, 02 điện thoại di dộng đã qua sử dụng và 01 áo khoác màu đen.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo N, cơ quan sảnh sát điều tra không thu giữ được gì.
Tại Kết luận giám định số 35 ngày 30/11/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục ở trong 04 túi nilon màu trắng được niêm phong trong hộp như đã mô tả ở trên có tổng trọng lượng là 122,8447 gam, loại ma túy: Chất heroin.
Với những tình tiết như trên, tại bản cáo trạng số 20/CT-VKS-P1 ngày 11/04/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Phí Thành N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo N đã khai nhận:
Khoảng 18 giờ, ngày 29/11/2016, bị cáo đi taxi một mình từ phường S, thị xã C, tỉnh Hải Dương đến khu vực phường Quán Toan, thành phố Hải Phòng với mục đích mua ma túy mang về bán kiếm lời. Tại đây, N gặp một người phụ nữ không quen biết, N đặt vấn đề muốn mua 50.000.000đ ma túy, người phụ nữa đồng ý. Sau khi bị cáo N đưa số tiền 50.000.000đ cho người phụ nữ thì người phụ nữ này đưa cho bị cáo 01 túi nilon màu đen. Bị cáo mở ra kiểm tra thì thấy bên trong có 04 túi nilon màu trắng có chứa chất bột dạng cục màu trắng, là heroin. Sau đó, bị cáo mang số ma túy vừa mua về nhà trọ của mình ở khu Nguyễn Trãi 2, phường S, thị xã C, tỉnh Hải Dương. Đến khoảng 11 giờ ngày 30/11/2016 bị cáo mang số ma túy này đến phòng 304 nhà nghỉ Trường Sơn thuộc thôn Kiều Lương, xã Đức Long, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tìm khách để bán thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang.
Bị cáo N thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Bắc Ninh thực hiện quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội, sau khi phân tích tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, trên cơ sở đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phí Thành N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị.
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; áp dụng thêm điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt: Phí Thành N 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy những vật chứng liên quan đến vụ án, trả lại cho bị cáo hai chiếc điện thoại di động nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Luật sư Trần Đình Thống trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với tội danh như cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên, nhưng cho rằng mức hình phạt 20 năm tù là quá cao. Theo ông Luật sư, trong vụ án này bị cáo mua bán ma túy để kiếm lời, nhưng chưa bán được thì bị bắt. Do vậy bị cáo phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt, bị cáo lại có 3 tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS hiện hành và theo điều 51 BLHS 2015 để từ đó áp dụng Điều 52 xử bị cáo 15 năm tù.
Trong phần đối đáp, đại diện VKS không đồng ý với quan điểm của VKS và cho rằng trong tội mua bán trái phép chất ma túy, không cần phải có thiệt hại xảy ra và vẫn đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo 20 năm tù.
Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật vụ án đã được thu hồi, cũng như phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã có trong hồ sơ thấy đã đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phí Thành N đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần gia tăng người nghiện hút ma túy trong xã hội và gia tăng nạn dịch HIV, gây mất trật tự trị an, gây nỗi bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Ma túy từ khi xuất hiện đã thực sự là một thảm họa, gây nhiều tác hại to lớn đối với con người và cộng đồng, gia tăng các loại tệ nạn xã hội, làm băng hoại đạo đức, suy kiệt giống nòi. Đã biết bao gia đình có người mắc vào tệ nạn nghiện hút ma túy mà dẫn đến tan vỡ gia đình, vợ chồng phải lìa tan, con cái phải bơ vơ. Cũng từ tệ nạn nghiện hút ma túy, mà có nhiều người dân lương thiện chỉ vì ma túy mà đã trở thành những người phạm tội mất hết cả nhân tính. Nguy hiểm hơn là hiện nay, tệ nạn nghiện hút ma túy đã và đang len lỏi vào cả học đường ở các cấp, dẫn đến tình trạng phạm tội ở các thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên có chiều hướng gia tăng. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, mở các cuộc vận động, tuyên truyền toàn dân tham gia tích cực đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn mua bán và nghiện hút ma túy làm trong sạch xã hội.
Là một công dân Phí Thành N có đủ nhận thức để hiểu được các tác hại do ma túy gây ra cũng như có đủ nhận thức để hiểu được những quy định cấm đoán của pháp luật đối với mọi hành vi liên quan đến ma túy. Song với mục đích muốn kiếm tiền một cách nhanh chóng mà không phải bỏ sức lao động, bị cáo đã bất chấp để đi vào con đường buôn bán ma túy với mục đích kiếm lời, phục vụ nhu cầu ích kỷ của bản thân. Trong vụ án này, bị cáo đã mua tổng khối lượng là 122,8447 gam Hêroin, đây là khối lượng ma túy đặc biệt lớn. Về nhân thân của bị cáo đã có 04 lần bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong đó hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo đã bị xử phạt 07 năm tù, đã chấp hành xong hình phạt vào 06/5/2013. Nếu theo quy định tại Điều 64 BLHS 1999 thì bị cáo chưa được xóa án tích. Xong thực hiện các quy định có lợi cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 30/6/2016 của Quốc Hội, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 về thời hạn đương nhiên xóa án tích thì bị cáo được đương nhiên xóa án tính. Cho nên với lần phạm tội này bị cáo sẽ không bị coi là có án tích và không bị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm. Tuy nhiên, bị cáo vẫn là người có nhân thân xấu, do vậy cần phải có mức án thật nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra cũng cần áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Về quan điểm của Luật sư, đề nghị cho bị cáo đưởng hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 là “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn”. HĐXX cho rằng đề nghị của Luật sư là không có cơ sở để chấp nhận bởi lẽ, tội mua bán ma túy là tội có cấu thành hình thức, chỉ cần có hành vi mua bán trái phép chất ma túy là tôi phạm được coi là hoàn thành, chứ không cần phải gây ra thiệt hại. Xét thấy, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo luôn có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và mẹ bị cáo là người có công với cách mạng đã nhiều lần được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến nên đây là hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
Trong vụ án, còn có một người phụ nữ bán Heroin cho N tại khu vực Quán Toan, thành phố Hải Phòng, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa có kết quả, khi nào có căn cứ thì xử lý sau là phù hợp.
Về xử lý vật chứng của vụ án, cần áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS giải quyết như sau: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy còn lại sau giám định; tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu đen đã qua sử dụng; đối với 02 chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng của bị cáo N không có căn cứ để chứng minh có liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Phí Thành N (tên gọi khác: Phí Ngọc N) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 4, 5 Điều 194, khoản p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt:
Phí Thành N 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 30/11/2016. Phạt bị cáo 10.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.
- Tiếp tục duy trì lệnh tạm giam số 53/2017/HSST-LTG ngày 25/04/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để đảm bảo thi hành án.
- Về tang vật vụ án: Áp dụng Điều 41, 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 hộp giấy được dán kín niêm phong, trên các mép dán có chữ ký và dấu đỏ, mặt trước hộp giấy có ghi: Kính gửi: Cơ quan CSĐT – CAT Bắc Ninh. Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận giám định số 35/KLGĐ-PC54 ghi ngày 30/11/2016 trong vụ án Phí Thành N SN 1973 ở Đồng Lạc, thị xã C, Hải Dương phạm tội về ma túy.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu đen đã qua sử dụng.
+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng số imei 359748/04/615798/9 và 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5 đã qua sử dụng số imei 352003060454574, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Chi tiết như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 23/CTHA ngày 10/04/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh).
- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 18/2017/HSST
Số hiệu: | 18/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về