Bản án 47/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điên Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2020/TLST-HS ngày 09/9/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HS ngày 16/9/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Kháng A D, sinh ngày 09/3/1982 tại huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên; Chỗ ở: Bản H, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kháng A P và bà Hờ Thị S (đã chết); Bị cáo có vợ là Hảng Thị D1 và 05 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 13/12/2011 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy tại Bản án số 08/2011/HSST, đến ngày 19/01/2017 được cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 04/6/2020, sau đó tạm giam từ ngày 07/6/2020 cho tới nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 00 giờ 05 phút, ngày 04/6/2020, tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã S làm nhiệm vụ tại khu vực bản H1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên phát hiện Kháng A D đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật. Tổ công tác đã yêu cầu Kháng A D dừng lại để kiểm tra, D đã tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng, mở bên trong có 01 cục chất bột dạng nén màu trắng đục. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng là 01 lọ nhựa màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng nén màu trắng đục. Sau đó, tổ công tác đã đưa người bị bắt và vật chứng về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N để điều tra làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Kháng A D khai nhận: Lọ nhựa chứa cục chất bột dạng nén màu trắng đục mà tổ công tác thu giữ là Heroine của Kháng A D mua của 01 người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi vào trưa ngày 01/6/2020 với giá 100.000 đồng tại khu vực đầu bản H, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên. Kháng A D mua Heroine với mục đích tàng trữ sử dụng cho bản thân vì D là người nghiện ma túy. Sau khi mua được cục Heroine, D về nhà cất giấu vào 01 lọ nhựa màu trắng, để trong túi quần treo ở đầu giường ngủ. Đến ngày 03/6/2020, D đi làm thuê tại bản H1, xã S có mang theo lọ nhựa đựng Heroine đi để sử dụng. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 04/6/2020 khi D đang trên đường đi bộ từ bản H1, xã S về nhà thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 04/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N xác định: Cục chất bột dạng nén màu trắng đục thu giữ của Kháng A D có khối lượng 0,2 (không phẩy hai) gam, lấy toàn bộ mẫu vật gửi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 493/GĐ-PC09, ngày 11/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Kháng A D gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018… Không hoàn lại đối tượng giám định".

Tại bản Cáo trạng số: 49/CT-VKS-NP ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Kháng A D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Kháng A D đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Kháng A D từ 12 tháng đến 18 tháng tù; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ vật chứng của vụ án là 01 lọ nhựa màu trắng, đối với vật chứng là Heroine đã giám định hết, không hoàn lại mẫu nên không đề nghị xử lý. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

Bị cáo Kháng A D nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Kháng A D thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình: Vào hồi 00 giờ 05 phút, ngày 04/6/2020, Kháng A D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2 (không phẩy hai) gam Heroine, được cất giấu trong 01 lọ nhựa màu trắng ở bản H1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên. Mục đích bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo là người nghiện ma túy. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Kháng A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:…

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn xã S, huyện N vì ma túy không chỉ gây hủy hoại sức khỏe của con người mà còn là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không bị ai xúi giục. Do đó, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cải tạo bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời làm gương răn đe giáo dục các đối tượng khác đang và đã có hành vi như bị cáo nhưng chưa bị phát hiện, xử lý.

[3] Về nhân thân bị cáo: Kháng A D xuất thân trong gia đình nông dân nhưng không chịu lao động, sống buông thả nên đã nghiện ma túy. Ngày 13/12/2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên xử phạt 07 (bẩy) năm tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy tại Bản án số 08/2011/HSST, đến ngày 19/01/2017 được cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù. Tuy nhiên, sau khi chấp hành hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, ngày 04/6/2020 bị cáo lại tiếp tục phạm tội trong vụ án này. Mặc dù, khi phạm tội mới, bị cáo đã được xóa án tích nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Khi bị bắt giữ bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, nghề nghiệp chính là làm nương, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị (Biên bản xác minh ngày 05/6/2020 và ngày 09/7/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N); gia đình bị cáo là hộ nghèo theo Giấy chứng nhận hộ nghèo số 773/GCN-HN-HCN, ngày 10/02/2020 của Ủy ban nhân dân xã S nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án là 01 lọ nhựa màu trắng. Đối với vật chứng là 0,2 gam Heroine, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã gửi giám định toàn bộ khối lượng, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên sau khi giám định không hoàn lại mẫu, Viện kiểm sát không đề nghị xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Trong vụ án Kháng A D khai nhận đã mua Heroine của người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi vào trưa ngày 01/6/2020 tại khu vực đầu bản H, xã S, huyện N. Do bị cáo không biết tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là dân tộc thiểu số (dân tộc Mông) sống tại xã S, huyện N là xã có điều kiện - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo là hộ nghèo. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Kháng A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Kháng A D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 04/6/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 lọ nhựa màu trắng, cùng phong bì niêm phong cũ, gói nilon cũ ở trong phong bì.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/9/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Kháng A D.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Kháng A D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 29/9/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về