Bản án 47/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2020/HSST ngày 24 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2020, thông báo về việc thay đổi lịch phiên tòa đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn T- sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: xóm C, xã C, huyện K, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: không; Con ông: Bùi Văn T và bà: Bùi Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 32 do Công an huyện Thanh Trì lập ngày 20/12/2019; Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19.12.2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nghiêm Thị Ngân- trợ giúp viên pháp lý thuộc Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3- Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 30 phút ngày 18/12/2019 Bùi Văn T điều khiển xe máy Honda Wave α màu xanh biển kiểm soát 12H1-20150 từ công ty Cổ phần V thuộc Khu công nghiệp quận L, Hà Nội đến xã N, huyện T, thành phố Hà Nội để mua ma túy đá về sử dụng. Trước khi đi, T sử dụng điện thoại có số sim 037847115 gọi vào số điện thoại 0336032877, qua xác minh chủ thuê bao là Nguyễn Minh H (sinh năm 1977; HKTT: Thôn 5, xã Đ, huyện T, Hà Nội) để mua ma túy. H gọi điện hẹn T đứng chờ ở trước cây xăng 74 thuộc xã N, huyện T đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, tại điểm đã hẹn, T đưa cho H 200.000 đồng, H đưa cho T túi nilon nhỏ bên trong có tinh thể màu trắng. T cầm túi ma túy đá cho vào túi quần bò phía trước bên phải, còn Hiển đi bộ về hướng ngã ba N.

Khong 23 giờ 40 phút ngày 18/12/2019, tổ tuần tra PK02E Công an thành phố Hà Nội tuần tra tại tuyến đường N đến khu vực gần cây xăng 74 thuộc xã N, huyện T, thành phố Hà Nội phát hiện T đứng cạnh xe máy Honda Wave α biển kiểm soát 12H1-20150 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bò phía trước bên phải của Bùi Văn T có 01 nilon bên trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, T khai là ma túy đá mua về để sử dụng nên Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng, đưa T về trụ sở làm việc. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ: 01 điện thoại Samsung Galaxy A30 có số sim 0378647115, 01 xe máy Honda Wave α màu xanh biển kiểm soát 12H1-20150.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Thanh Trì đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Bùi Văn T.

Tại bản kết luận giám định số 8286/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,260 gam.

Cơ quan giám định đã sử dụng 0,020 gam trong tổng số 0,260 gam Methamphetamine đã thu giữ của T để làm mẫu giám định, còn lại 0,24 gam Methamphetamine hoàn lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Thanh Trì.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Thanh Trì: Bùi Văn T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của T phù hợp với các tài liệu chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12H1-20150 tạm giữ của T, quá trình điều tra xác định là tài sản của vợ chồng chị Lục Thùy Minh T (sinh năm 1999; HKTT: thôn T, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn) và anh Nguyễn Văn K (sinh năm 1996; HKTT: thôn K, xã Q, huyện H, tỉnh Lạng Sơn). Anh K cho T mượn xe, không biết việc T đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Thanh Trì đã trao trả cho anh K chiếc xe mô tôi nói trên, anh K nhận lại chiếc xe và không có yêu cầu khác.

Đi với chiếc điện thoại Samsung Galaxy A30 bên trong có số sim 0378647115, quá trình điều tra xác định T đã sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi với chủ thuê bao số sim điện thoại 0378647115 là của anh Quách Anh T (sinh năm 1994; HKTT: xã C, huyện K, tỉnh Hòa Bình), anh T khai: anh đã làm mất sim điện thoại hiện không còn sử dụng, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đi với Nguyễn Minh H là người liên quan trong vụ án, hiện không có mặt tại nơi cư trú nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Trì tách toàn bộ hồ sơ liên quan đến H để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKSTT ngày 24.3.2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì đã truy tố Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo T giữ nguyên lời khai, thừa nhận nội dung cáo trạng, tội danh mà VKS truy tố là đúng. Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đề nghị Toà án cho bị cáo được sự khoan hồng của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo, bà Nghiêm Thị Ngân có ý kiến: Bị cáo T thành khẩn khai báo. Bị cáo phạm tội lần đầu, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, phạm tội do lạc hậu, gia đình có ông nội và bố là người có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm m, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Bùi Văn T mức án từ 14 tháng đến 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn phạt tiền. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy tang vật là 0,24 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.

Tch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Samsung Galaxy A30 bên trong có số sim 0378647115 của bị cáo T do liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo không bổ sung gì.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Bùi Văn T đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Thanh Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 40 phút ngày 18/12/2019 tại đường N gần cây xăng 74 thuộc xã N, huyện T, thành phố Hà Nội, Bùi Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,260 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước ta, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, làm hủy hoại sức khỏe, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Hành vi của bi cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện vẫn cố T phạm tội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội , tỏ ra ăn năn hối cải nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay cũng như tại Cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo là cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình có ông nội và bố là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét trong trường hợp này bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn phạt tiền.

5] Về biện pháp tƣ pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tch thu tiêu hủy 0,24 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giảm định là tang vật vụ án.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước nước 01 điện thoại Samsung Galaxy A30 bên trong có số sim 0378647115 của bị cáo T do liên quan đến hành vi phạm tội.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bùi Văn T 13 ( Mƣời ba) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/12/2019.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong dán kín còn nguyên vẹn bên trong có 0,24 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định có chữ ký của giám định viên và Bùi Văn T.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại SamSung Galaxy A30 bên trong có sim số 0378647115 thu giữ của bị cáo.

Toàn bộ số tang vật nêu trên được lưu kho của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 3 năm 2020. - Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 khoản 1; Điều 332 và Điều 333; Điều 336; Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21 khoản 1 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về