Bản án 47/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 47/2019/HSST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/9/2019, tại trụ sở UBND xã Tr, huyên Th, tỉnh B. Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2019/TLST-HS ngày 30/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS ngày 03/9/2019 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2000.

HKTT: Thôn Đ, xã X, huyện Th, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1963; Vợ: Chưa có; Con: có 01 con sinh năm 2019.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 06/12/2018 bị cáo bị Công an xã X, huyện Th xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác bằng hình thức phạt tiền với mức phạt: 1.500.000đ (Đã nộp phạt xong ngày 06/12/2018)

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 2001. Trú tại: Thôn Đ, xã X, huyện G, tỉnh B. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa , nôi dung vu án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 19/5/2019 tại đường Quốc lộ 17 thuộc địa phận thôn C, xã H, huyện Th, tỉnh B, Công an huyên Thuân Thanh băt qua tang Nguyễn Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: Thu tại phía sau lưng bên trái, bên trong cạp quần Đ có 01 gói nhỏ bên ngoài bọc ngoài bằng giấy màu đỏ rơi ra, mở ra bên trong gói nhỏ có 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 10 viên nén hình tròn màu đỏ, trên mặt mỗi viên nén có chữ “WY” (Đ khai là ma túy). Ngoài ra còn thu giữ của Đ: 01 chiếc điện thoại di động màu vàng đen có chữ VERTU và số tiền 275.000đồng. Công an huyên Thuận Thành đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong gói ma tuy trên và gửi đi giám định.

Nguồn gốc số ma tuý bị thu giữ Đ khai: Qua quan hệ xã hội Đ có quen biết với Lê Văn S, sinh năm 1978, trú tại thôn L, xã K, huyện G, thành phố H. Khoảng 16 giơ ngay 19/5/2019 Đ đang ở nhà thì S gọi điện bảo Đ ra nhà S có việc, Đ đi taxi ra nhà S ngồi chơi khoảng 5 phút thì S bảo Đ đi cùng S vào thị trấn H, huyện Th có việc. Đ đồng ý và S dùng xe môtô của mình chở Đ ngồi sau. Khi đi đến khu vực Trường tư thục K thuộc xã H, huyện Th thì S đưa cho Đ 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu đỏ và bảo Đ: “Cầm tí sử dụng”. Bản thân Đ là đối tượng nghiện ma túy nên khi S đưa gói nhỏ thì Đ biết bên trong gói nhỏ này có ma túy nên đồng ý cầm ở tay. Sau đó S vẫn điều khiển xe môtô chở Đ đi đến đầu ngõ nhỏ quán cà phê Ph thuộc thôn C, xã H thì dừng xe để Đ vào quán cà phê sử dụng ma túy. Khi Đ vừa xuống xe chưa kịp đi vào trong quán thì bị Công an huyên Thuân Thanh kiểm tra. Đ sợ hãi nên đã cất giấu gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu đỏ ở phía sau lưng trong cạp quần của Đ, khi Công an kiểm tra vén áo lên thì gói nhỏ này rơi ra. Công an huyện Thuận Thành đã bắt giữ Đ, còn S điều khiển xe mô tô bỏ chạy.

Tại bản Kết luận giám định số 447/KLGĐMT-PC09 ngày 19/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chất tinh thể màu trắng gửi giám định có khôi lượng là 2,5375 gam; Là ma tuý; Loại ma tuý: Methamphetamine.

+ 01 viên nén hình tròn màu đỏ có chữ WY gửi đi giám định có khối lượng 0,9845gam; Là ma túy; Loại ma tuý: Methamphetamine.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 52/Ctr-VKS, ngày 29/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của như bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh duy trì công tố tại phiên toà sau khi đánh giá tính chất của vụ án, phân tích, đánh giá chứng cứ, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đưa ra những chứng cứ, lý lẽ buộc tội bị cáo đa đ ề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên tội danh như Cáo trạng đã truy tố và đè nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 34 đến 38 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị: Tịch thu tiêu huỷ tang vật còn lại sau giám định.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sơ nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: 

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện rõ: Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 19/5/2019 tại đường Quốc lộ 17 thuộc địa phận thôn C, xã H, huyện Th, tỉnh B, Nguyễn Văn Đ có hành vi tàng trữ bất hợp pháp chât ma tuý có tổng trọng lượng theo kết luận giám định là 3,522 gam ma túy, loại ma túy: Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an huyên Thuân Thanh bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đa xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma tuý nhằm mục đích sử dụng nên đã đi vào con đường phạm tội. Chính vì vậy phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền án nhưng có 01 tiền sự. Năm 2018 bị Công an xã X, huyện Th xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác. Bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, nay lại phạm vào tội nghiêm trọng do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên sau khi phạm tội và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đươc hương tinh tiêt giam nhe quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước. Nhưng xét mục đích bị cáo tàng trữ ma tuy để sử dụng, không nhằm mục đích thu lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Liên quan trong vụ án này còn có đối tượng Lê Văn S mà bị cáo khai đã đưa ma túy cho bị cáo. Tại Cơ quan điều tra Lê Văn S trình bày: S có có quan hệ xã hội và quen biết với Nguyễn Văn Đ. Khoảng 16 giờ ngày 19/5/2019 S đang ở nhà thì Đ đến chơi. Sau đó S và Đ cùng nhau đi đến thị trấn H chơi, trên đường đi Đ có bảo với S là đi đến đầu ngõ rẽ vào quán cà phê Ph thì cho Đ xuống. Khi đến đầu ngõ quán cà phê Ph thì Đ xuống xe, khi Đ vừa xuống xe thì có người ập ra, S tưởng đánh nhau nên sợ và điều khiển xe môtô bỏ đi. Quá trình ở nhà S và trên đường đi S không đưa gói nhỏ nào cho Đ và cũng không đưa ma túy cho Đ. Cơ quan Điều tra đa tiên hanh đôi chât giưa Đ và S, quá trình đối chất S vẫn không thưa nhân đã đưa ma túy cho Đ, do vây Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý đối với S.

Tại phiên tòa hôm nay Đ xác nhận ngoài lời khai của mình thì Đ không có chứng cứ nào khác chứng minh S đã đưa ma túy cho Đ.

Đối với chiếc điện thoại 01 chiếc điện thoại di động màu vàng đen có chữ VERTU và số tiền 275.000đồng mà cơ quan điều tra đã tạm giữ của Đ. Quá trình điều tra xác định số tài sản này là của chị Nguyễn Thị Th (là vợ của Đ nhưng chưa đăng ký kết hôn), không liên quan đến hành vi phạm tội của Đ nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Th là phù hợp.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự để xử lý số vật chứng của vụ án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là có căn cứ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh là mẫu vât con lại sau giám định (Theo biên ban giao nhân vât chưng tai san ngay 11/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Thành)

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về